Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1997
From Wikipedia, the free encyclopedia
Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1997 không có giới hạn chính thức, nó trải dài suốt năm, bắt đầu từ 1 tháng 1 và kết thúc vào 31 tháng 12. Tuy nhiên tháng 5 đến tháng 11 là giai đoạn tập trung số lượng lớn các xoáy thuận nhiệt đới hình thành.[1]. Đây là mùa bão hoạt động mạnh nhất từng được ghi nhận trên Trái Đất với số lượng kỷ lục các cơn bão mạnh, 10 cơn siêu bão cấp 5 trong thang bão Saffir-Simpson và tổng chỉ số ACE là 594.11.
Bản đồ tóm lược mùa bão | |
Lần đầu hình thành | 19 tháng 1 năm 1997 |
---|---|
Lần cuối cùng tan | 23 tháng 12 năm 1997 |
Bão mạnh nhất | Ivan và Joan – 905 hPa (mbar), 195 km/h (120 mph) (duy trì liên tục trong 10 phút) |
Áp thấp nhiệt đới | 32 |
Tổng số bão | 29 |
Bão cuồng phong | 16 |
Siêu bão cuồng phong | 11 (cao kỷ lục, bằng với mùa bão 1965) |
Số người chết | Ít nhất 3,845 người |
Thiệt hại | $6.3421 tỉ (USD 1997) |
Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1995, 1996, 1997, 1998, 1999 |
Phạm vi của bài viết giới hạn ở khu vực Thái Bình Dương, phần phía Bắc đường xích đạo và bên trái của đường đổi ngày quốc tế. Những cơn bão hình thành ở khu vực phía Bắc xích đạo và bên phải đường đổi ngày quốc tế thuộc về khu vực Đông Bắc Thái Bình Dương (xem Mùa bão Đông Bắc Thái Bình Dương 1997). Những cơn bão nhiệt đới hình thành tại Tây Bắc Thái Bình Dương được đặt tên bởi Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp (Joint Typhoon Warning Center (gọi tắt là JTWC)). JTWC sẽ đặt tên cho cơn bão khi vận tốc gió duy trì 1 phút của một vùng áp thấp nhiệt đới đạt 40 dặm/giờ (65 km/giờ). Áp thấp nhiệt đới ở Tây Bắc Thái Bình Dương sẽ được ký hiệu bởi chữ W phía sau số thứ tự của chúng. Áp thấp nhiệt đới trở lên hình thành hoặc đi vào khu vực theo dõi của Philippines cũng sẽ được đặt tên bởi Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines hay gọi tắt là PAGASA. Điều này là lý do khiến cho nhiều trường hợp, một cơn bão có hai tên gọi khác nhau.