Lục quân Đế quốc Áo-Hung
From Wikipedia, the free encyclopedia
Lục quân Đế quốc Áo-Hung là lực lượng lục quân của Đế quốc Áo-Hung tồn tại từ năm 1867 khi đế quốc này được thành lập cho đến năm 1918 khi đế quốc này tan rã sau thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất trước khối Hiệp ước.
Lục quân Đế quốc Áo-Hung Österreichisch-Ungarische Landstreitkräfte (Tiếng Đức) | |
---|---|
Chiến kỳ Đế quốc Áo-Hung | |
Hoạt động | 1867 - 1918 |
Phục vụ | Đế quốc Áo-Hung |
Phân loại | Lục quân |
Quy mô | 415.000 (Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất) 3.350.000 (Chiến tranh thế giới thứ nhất) |
Tham chiến |
|
Đế quốc Áo-Hung là một nền quân chủ nhị nguyên kết hợp giữa Đế quốc Áo và Vương quốc Hungary nên lục quân nước này được cấu thành từ ba lực lượng độc lập nhưng có sự liên kết với nhau là Lục quân Liên hợp (Tiếng Đức: Gemeinsame Armee), lực lượng chung của Áo và Hungary tuyển mộ từ khắp đế quốc; Lục quân Áo (Tiếng Đức: k.k. Landwehr) tuyển mộ từ vùng Cisleithania, vùng nói tiếng Đức của đế quốc; và Lục quân Hungary (Tiếng Hungary: Magyar Királyi Honvédség) tuyển mộ từ vùng Transleithania.
Một trong những vấn đề lớn nhất của Lục quân Đế quốc Áo-Hung là tính chất đa sắc tộc của lực lượng này, với tổng cộng mười một dân tộc: người Áo-Đức, người Hungary, người Ý, người România, người Séc, người Slovakia, người Ba Lan, người Ukraina, người Slovenia, người Serb và người Croatia. Người Áo-Đức và người Hungary lần lượt chiếm 28% và 18% tổng quân số, còn người Slavơ chiếm đến 44% quân số, bên cạnh 8% là người România và 2% là người Ý.[1]
Franz Künstler là người lính cuối cùng của Lục quân Áo-Hung qua đời vào tháng 5 năm 2008 ở tuổi 107.