Władysław II Jagiełło
From Wikipedia, the free encyclopedia
Jogaila, sau này là Władysław II Jagiełło (phát âm tiếng Ba Lan: [vwadɨˈswaf jaˈɡʲɛwːɔ] ⓘ)[nb 1] (sinh khoảng năm 1352/1362 - mất ngày 1 tháng 6 năm 1434) là Đại vương công Lietuva (1377-1434) và sau đó là vua Ba Lan (1386-1434), lần đầu tiên cùng với người vợ của mình Jadwiga cho đến 1399, và sau đó vua duy nhất của Ba Lan. Ông cai trị trong Litva từ 1377. Có nguồn gốc là người pagan, trong năm 1386 ông đã chuyển sang Công giáo và được rửa tội Władysław ở Kraków, ông cưới nữ vương Jadwiga, và lên ngôi vua của Ba Lan với vương hiệu Władysław II Jagiełło.
Władysław II Jagiełło | |
---|---|
Vua Władysław II Jagiełło, chi tiết của Triptych of Our Lady of Sorrows Nhà thờ lớn Wawel. | |
Đại vương công Lietuva | |
Tại vị | Tháng 5 năm 1377 – Tháng 8 năm 1381, 3/15 tháng 8 năm 1382 – 1 tháng 6 năm 1434 |
Tiền nhiệm | Algirdas |
Kế nhiệm | Kęstutis (tháng 8 năm 1381), Skirgaila (Jagiello's regent, 1386–1392), Vytautas (Jagiello's regent, 1392–1430) |
Vua Ba Lan | |
Tại vị | 4 tháng 3 năm 1386 – 1 tháng 6 năm 1434 |
Đăng quang | 4 tháng 3 năm 1386 |
Tiền nhiệm | Jadwiga |
Kế nhiệm | Władysław III |
Thông tin chung | |
Sinh | khoảng 1352/1362 Vilnius, Đại công quốc Litva |
Mất | (1434-06-01)1 tháng 6 năm 1434 Gródek Jagielloński, Vương quốc Ba Lan |
An táng | Nhà thờ chính tòa Wawel |
Phối ngẫu | Jadwiga của Ba Lan Anne của Cilli Elisabeth của Pilica Sophia của Halshany |
Hậu duệ | Elizabeth Bonifacia Jadwiga của Lithuania Władysław III của Ba Lan Casimir IV Jagiellon |
Triều đại | Jagiellon (Nhánh của triều đại Gediminid) |
Thân phụ | Algirdas, Đại công tước Litva |
Thân mẫu | Uliana Alexandrovna của Tver |
Tôn giáo | Công giáo Rôma, trước đó là Pagan giáo |
Trong năm 1387, ông chuyển Litva sang Kitô giáo và lập triều đại của riêng mình tại Ba Lan bắt đầu năm 1399, sau cái chết của nữ vương Jadwiga. Triều đại của Wladyslaw II kéo dài hơn ba mươi lăm năm và đặt nền móng cho liên minh Ba Lan-Litva dài cả hàng thế kỷ. Ông là thành viên của triều đại Jagiellon tại Ba Lan mang tên ông và trước đây cũng được biết đến là một nhánh của triều đại Geminid trong đại công quốc Lithuania. Triều đại cai trị cả hai quốc gia cho đến 1572, và trở thành một trong những triều đại có ảnh hưởng nhất vào cuối thời Trung cổ và đầu thời cận đại ở Trung và Đông Âu. Trong suốt triều đại của ông, nhà nước Ba Lan-Litva là nhà nước lớn nhất trong thế giới Kitô giáo.[1] Jogaila là nhà cai trị Pagan cuối cùng của thời trung cổ Litva. Sau khi trở thành vua của Ba Lan, như là kết quả của Liên minh Krewo, liên minh Ba Lan-Litva mới thành lập đã đối đầu với sức mạnh ngày càng tăng củaHiệp sĩ Teuton. Những chiến thắng liên minh trong trận Grunwald trong năm 1410, tiếp theo là hòa ước Thorn, bảo đảm biên giới Ba Lan và Lithuania và đánh dấu sự xuất hiện của liên minh Ba Lan-Litva là một lực lượng đáng kể ở Đông Âu và Trung Âu cuối thời kỳ Trung cổ và đầu thời kỳ hiện đại.[2] Triều đại Władysław II Jagiełło mở rộng biên giới Ba Lan và thường được coi là sự khởi đầu của Thời kỳ hoàng kim Ba Lan.