Các tôn giáo độc thần xuất phát đến từ khu vực Tây Á From Wikipedia, the free encyclopedia
Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, hay còn gọi là các tôn giáo Abraham, là các tôn giáo độc thần (monotheistic) xuất phát từ Tây Á, tự coi là có sự tiếp nối từ các thực hành tôn giáo thờ Thiên Chúa của Abraham hoặc công nhận truyền thống tâm linh gắn với ông. Abraham được coi là một ngôn sứ, như được miêu tả trong Kinh Tanakh, Kinh Thánh và Kinh Qur'an. Trong ngành so sánh tôn giáo, đây là một trong các nhóm tôn giáo chính cùng với các tôn giáo Ấn Độ và các tôn giáo Đông Á. Các tôn giáo theo truyền thống Abraham bao gồm: Do Thái giáo, Kitô giáo, và Hồi giáo, có số lượng tín hữu chiếm hơn một nửa dân số thế giới. Ngoài ra, một số tôn giáo khác có liên quan đôi khi cũng được coi là có khởi nguồn từ Abraham như Samari giáo, Druze giáo, Shabak giáo, Bábi giáo, Bahá'í giáo, và phong trào Rastafari.
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thông tin. |
Trong tiếng Việt, cách gọi Thiên Chúa giáo thường được dùng để chỉ Công giáo Rôma nói riêng và Kitô giáo (Cơ Đốc giáo) nói chung nhưng xét về mặt ngữ nghĩa thì có lẽ sẽ thích hợp hơn nếu áp dụng cách gọi đó cho các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham cũng như các tôn giáo độc thần nói chung.
Đến một mức độ nào đó, các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham đều có nguồn gốc từ Do Thái giáo (Judaism) phổ biến tại đất nước Do Thái cổ đại trước thời kỳ lưu đày tại Babylon vào đầu thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên.
Kitô giáo xuất hiện vào thế kỷ thứ nhất như là một hình thức cải cách triệt để của Do Thái giáo, mau chóng lan truyền đến Hi Lạp và La Mã, từ đó tiến đến Châu Âu, Châu Á, Châu Mỹ và các nơi khác trên thế giới. Trải qua nhiều thế kỷ, Kitô giáo tự chia cắt thành nhiều giáo hội và giáo phái khác nhau. Cuộc ly giáo quan trọng đầu tiên xảy ra vào thế kỷ thứ 5 đã tách các Giáo hội Chính thống giáo Cổ Đông phương khỏi Giáo hội hiệp nhất. Cuộc Đại Ly giáo sau đó đã tách biệt Chính thống giáo Đông phương và Công giáo Rôma, và vào thế kỷ 16 cuộc Cải cách Kháng nghị (Protestant Reformation) đã sản sinh hàng trăm giáo phái thuộc cộng đồng Kháng Cách.
Vào thế kỷ thứ 6, Hồi giáo đến từ các thành phố Mecca và Madinah xứ Ả Rập. Tuy nguyên thủy không phải là một nhánh ly khai từ Do Thái giáo hay Kitô giáo, Hồi giáo tự cho mình là sự tiếp nối và thay thế cho hai tôn giáo nói trên. Vì vậy người ta có thể tìm thấy trong Hồi giáo nhiều di sản từ Do Thái giáo và Kitô giáo như tín đồ Hồi giáo tin vào một dị bản của câu chuyện Sáng thế, họ cũng tin rằng người Ả Rập là dòng dõi của Abraham theo phổ hệ Ishmael, trong khi đó, họ bác bỏ Kinh thánh Do Thái vì họ cho rằng trong đó người ta đã xoá bỏ những phần đề cập đến sự xuất hiện của Muhamad. Dù vậy, họ vẫn tôn trọng bản kinh thánh này như là được soi dẫn bởi Thiên Chúa.
Ký thuật về khởi nguyên của các tôn giáo bắt nguồn từ Abraham được tìm thấy trong Sáng thế ký của Kinh thánh Hêbrơ mà theo truyền thuyết Do thái được viết bởi Moses vào thiên niên kỷ thứ hai trước công nguyên, theo nhiều ước tính, vào năm 1500 TCN. Theo Sáng thế ký, các nguyên lý căn bản của Do Thái giáo được mặc khải tuần tự theo dòng dõi các tổ phụ, từ Adam đến Jacob (cũng được gọi là Israel). Tuy nhiên, Do thái giáo được thành lập như là một tôn giáo khi Moses (Mô-sê hoặc Môi-se) nhận lãnh Mười Điều răn trên núi Sinai, cùng với hệ thống tư tế và các nghi thức thờ phụng tại Đền thờ sau khi dân tộc này được giải cứu khỏi Ai Cập.
Có sáu nhân vật quan trọng trong Kinh Thánh sống trước Abraham: Adam và Eva, các con trai, Cain và Abel và dòng dõi của họ, Enoch và Noah. Noah là người đã cứu gia đình mình và tất cả chủng loại thú vật trên đất bằng Con tàu Noah trong cơn Đại hồng thủy. Các vị này không để lại bất kỳ hệ thống đạo lý nào – đơn giản họ chỉ sống cuộc đời mình, làm nhiều điều tốt và xấu mà không để lại chỉ báo đặc biệt nào giúp giải thích các hành động của họ. Họ chỉ tồn tại như những mắt xích trong một chuỗi các sự kiện chuẩn bị cho sự khai sinh một tôn giáo lớn sau này. Vì vậy Abraham xuất hiện như một hình tượng nổi bật được ba tôn giáo độc thần lớn nhất nhìn nhận là người đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập nền văn minh chung của họ.
Theo Sáng thế ký, Abraham được kêu gọi rời bỏ Ur, thành phố quê hương của mình, để được Thiên Chúa "làm cho ông trở nên một dân lớn". Abraham (hay Ibrahim theo tiếng Ả Rập) có tám con trai: Ishmael, con của Hagar, nữ tì của vợ ông; Isaac, con của Sarah, vợ ông và sáu người khác, con của Keturah, người phụ nữ ông cưới làm vợ sau khi Sarah qua đời. Cũng theo ký thuật này, dân Do Thái là hậu duệ của Jacob, con trai của Isaac. Jacob sau này được đổi tên thành Israel. Do thái giáo dựa trên giao ước được thành lập tại núi Sinai giữa Thiên Chúa và "con cái của Israel" (hậu duệ của mười hai con trai của Israel).
Kitô giáo nhìn nhận Chúa Giê-su, là Đấng Messiah mà người Do Thái mong đợi, là Con Thiên Chúa, và là một thân vị trong Ba Ngôi.
Hồi giáo nhìn nhận Chúa Giê-xu và các nhà tiên tri Do Thái sau Abraham (như Moses) là được Thiên Chúa soi dẫn, nhưng họ xem Muhamad (người sáng lập Hồi giáo) là nhà tiên tri sau cùng.
Đạo Baha'i nhìn nhận các nhà tiên tri này, nhưng thêm vào Bab, Bâh’u’llah và các tiên tri khác.
Tương tự, Phong trào Rastafari nhìn nhận thẩm quyền Kinh Thánh, thêm vào đó tin rằng họ là hậu duệ của tôn giáo của Abraham. Họ công nhận hầu hết các tiên tri trong Kinh Thánh và thêm vào Hoàng đế Haile Selassie và Marcus Garvey.
Đạo Mormon tổng hợp Kitô giáo cổ đại và Do Thái giáo.
Trong khi Do Thái giáo và Hồi giáo có quan điểm triệt để về tính duy nhất của Thiên Chúa thì người Kitô hữu tin rằng Ngài là Thiên Chúa duy nhất hiện hữu trong ba thân vị gọi là Ba Ngôi.
Tín hữu Kitô giáo xưng nhận niềm tin vào một Thiên Chúa duy nhất, một Ba Ngôi bất khả phân ly (được gọi là tam vị nhất thể), hiện hữu trong ba "thân vị": Chúa Cha, đấng tạo dựng cả vũ trụ; Chúa Con nhập thể làm người - Chúa Giê-su; và Chúa Thánh Thần. Họ tin rằng Thiên Chúa của họ cũng là Thiên Chúa của Do Thái giáo và giáo lý Ba Ngôi chỉ được mặc khải trọn vẹn trong Chúa Giê-xu. Giáo thuyết này được trình bày trong Kinh Thánh Kitô giáo (gồm Cựu Ước và Tân Ước) cũng như trong Phúc âm Gioan (Gioan hoặc Giăng) 10.30 ("Ta với Cha là một"), được lập thành học thuyết bởi các giáo phụ và được xác định rõ ràng trong Bản tín điều Athanasius.
Khi nhắc đến Chúa Cha, Kitô giáo ít khi gọi Ngài là "Yahweh", nhưng thường dùng danh xưng "Chúa Cha" hay "Chúa". Họ thường nhắc đến Chúa Con với các danh xưng "Con Thiên Chúa", "Ngôi Lời của Thiên Chúa" trước khi Ngài giáng thế, hoặc "Chúa Giêsu Kitô", "Chúa Cứu thế", "Đấng Messiah", "Đấng Chuộc tội" hoặc "Chiên con của Thiên Chúa" từ khi Ngài giáng thế.
Giáo lý Ba Ngôi độc thần không được chấp nhận bởi một số giáo phái như phái Arius (Arianism), Nhất vị giáo (Unitarianism), Nhân chứng Jehovah, Mormon. Các giáo phái này tin rằng Thiên Chúa chỉ có một ngôi vị (Chúa Cha); riêng đạo Mormon tin rằng Cha, Con và Thánh Linh là ba ngôi vị độc lập.
Thần học Do Thái giáo đặt nền tảng trên Kinh thánh Hêbrơ (Tanakh, hoặc Cựu Ước của người Kitô hữu), theo đó các thuộc tính và mệnh lệnh của Đấng Tối cao được mặc khải trong các Sách của Moses và các sách Tiên tri hoặc Ngôn sứ. Nền thần học này cũng dựa vào Luật Truyền khẩu được chép lại trong kinh Mishnah và Talmuds. Đến thời kỳ dân Do Thái bị trở thành nô lệ ở Babylon, tiên tri Isaia mới tổng hợp các lời truyền miệng trong Kinh Thánh đã tạo thành cuốn kinh Hebrew đầu tiên
Đấng Tối cao được xưng danh trong Kinh thánh Hêbrơ là Elohim hoặc là Đức Chúa, Adonai hoặc với bốn mẫu tự Hêbrơ "Y-H-V (hay W)-H", người Do thái không phát âm từ này nhưng Kitô giáo thường đọc là "Yahweh", tiếng Việt là Ya-vê (hay Gia-vê).
Kinh Thánh Tanakh thuật lại mối quan hệ giữa dân tộc Israel và Thiên Chúa trong những thời kỳ sơ khai nguyên thủy của lịch sử cho đến giai đoạn xây dựng ngôi đền thánh đệ nhị(c. 535 BCE). Abraham được ca ngợi là tổ tiên của người Hebrew đầu tiên và là tổ phụ của người Do Thái. Một trong những cháu trai đích tôn của ông là Judah, cái tên của Judah là danh từ mà tôn giáo Do Thái giáo đặt tên có nguồn gốc từ cái tên này. Người Israel ban đầu là một nhóm người của các bộ lạc sống ở Vương quốc Israel và Vương quốc Judah.
Sau khi người Do Thái bị chinh phục và bị lưu đày, một số thành viên của Vương triều Judah cuối cùng đã trở về quốc gia Israel. Sau đó, họ thành lập một quốc gia độc lập dưới triều đại Hasmonean vào thế kỷ thứ nhì và thứ nhất trước Công nguyên, trước khi trở thành một thuộc địa của đế quốc La Mã, quốc gia của họ cũng đã từng bị chinh phục và được phân tán lưu vong khắp mọi nơi. Từ thế kỷ thứ 2 đến thế kỉ thứ 6, người Do Thái đã viết kinh kệ Talmud, một công trình sách văn tự giáo điều dài dòng liên quan đến các phán quyết và những vấn đề pháp luật và sự chú giải theo Kinh Thánh, cùng với Tanakh, là một văn bản then chốt của Do thái giáo.
Allah là tiếng Ả Rập dùng để gọi Thiên Chúa, truyền thống Hồi giáo cũng miêu tả 99 tên của Thiên Chúa. Người Hồi giáo tin rằng Thiên Chúa của người Do Thái cũng là Thiên Chúa của họ và Chúa Giê-su là đấng tiên tri được soi dẫn bởi Thiên Chúa. Như thế, họ xem thần học của Kinh thánh Do thái và sự dạy dỗ của Chúa Giê-su là đúng trên nguyên tắc nhưng họ tin rằng Hồi giáo là sự tiếp nối và thay thế cho hai tôn giáo trên.
Phổ hệ ở đây được hiểu là giao ước được thành lập giữa Thiên Chúa và Abraham, có tính cha truyền con nối cho dòng dõi của ông, giống như ngai báu được truyền cho dòng dõi nhà vua.
Theo Sáng thế ký, Thiên Chúa lập giao ước với Abram, sau đó ông được đổi tên thành Abraham.
Ishmael là con trai đầu lòng của Abraham. Truyền thống Do Thái cho rằng ông là con ngoại hôn của Abraham và Hagar- nữ tì của Sarah (vợ ông), nhưng người Hồi giáo cho rằng ông là con chính thức trong hôn phối của Abraham và Hagar. Ông được coi là tổ phụ của người Ả Rập.
Isaac được sinh bởi Sarah, người vợ đầu tiên và duy nhất của Abraham, ông là con trai thứ hai của Abraham. Người Do Thái tin rằng ông là con đầu lòng của Abraham trong hôn phối trong khi người Hồi giáo cho rằng ông là con thứ hai trong hôn phối.
Jacob, con của Isaac, được đổi tên thành Israel.
Dòng dõi của mười hai người con của Jacob (Israel) là Asher, Benjamin, Dan, Gad, Issachar, Joseph, Judah, Levi, Naphtali, Reuben, Simeon, và Zebulun phát triển thành mười hai chi tộc Israel. Chi tộc Levi đảm nhận chức vụ tư tế. Trước khi chết, Jacob chúc phước cho Ephraim và Manasseh, hai con trai của Joseph và lập họ thành hai chi tộc riêng.
Người Do Thái tin rằng giao ước được truyền từ Abraham đến Isaac, con đầu lòng của Abraham trong hôn phối, và truyền đến Jacob (Israel). Người Do Thái tin rằng họ thuộc về các chi tộc lập thành Vương quốc Judah, gồm các chi phái Judah, Benjamin và Levi. Mười chi tộc còn lại lập thành Vương quốc Israel, bị lưu đày khi bị xâm lăng bởi đế quốc Assyria. Chữ Do Thái, Jew, có nguồn gốc từ chữ Judah.
Người Hồi giáo tin rằng giao ước được truyền từ Abraham đến Ishmael vì ông là con đầu lòng và là con chính thức.
Tín hữu Kitô giáo tin rằng giao ước được truyền từ Abraham đến Isaac, con đầu lòng trong hôn phối và đến Jacob (Israel). Dòng dõi của Jacob là người kế thừa giao ước. Dù vậy, quyền trị vì được truyền cho Judah, một trong những con trai của Jacob, đến hậu duệ của Judah là Vua David, sau cùng là Chúa Giê-su, Đấng Messiah của dân Do thái. Sự chết chuộc tội của Chúa Giê-su Ki-tô thiết lập một giao ước mới khiến sự kế thừa huyết thống từ Abraham không còn cần thiết. Hầu hết tín hữu Kitô giáo đồng ý rằng về phương diện thuộc linh, người Kitô hữu là con cái của Abraham.
Tín đồ Mormon tin rằng giao ước được truyền từ Abraham đến Isaac, rồi đến Jacob. Họ tin rằng họ thuộc về chi phái Joseph.
Cả ba tôn giáo này đều đặt thẩm quyền của mình trên các sách thánh, được hầu hết tín đồ xem là lời của Thiên Chúa – vì vậy là thánh và chân xác – cùng với một số sách khác được tôn trọng như là có sự soi dẫn thần thượng.
Kinh thánh của Do thái giáo gồm có Tanakh, chữ viết tắt trong tiếng Hebrew cho các cuốn Ngũ Thư Torah (Luật), Nevi’im (các sách Tiên tri) và Ketuvim (các sách văn chương). Các sách này được bổ sung bởi một bộ các tác phẩm được viết bởi các chức sắc gọi là Talmud. Tanakh, đặc biệt là Torah, trong bản văn Hebrew, được xem là thánh đến từng câu chữ. Mọi dịch thuật đều không được hoan nghênh và cần phải hết sức cẩn thận và kiên nhẫn khi sao chép.
Các sách thánh của Kitô giáo là Cựu Ước, không có khác biệt quan trọng nào so với Kinh thánh Hêbrơ, cùng với Tân Ước bao gồm bốn sách Phúc âm viết về cuộc đời và sự day dỗ của Chúa Giê-su, được cho là của các sứ đồ Matthew, Mark, Luke và John và các sách khác được viết bởi các giáo phụ đầu tiên như Phaolô. Tất cả các sách này được gọi chung là Kinh Thánh Kitô giáo, thường được xem là có sự soi dẫn của Thiên Chúa. Như vậy người Kitô giáo công nhận các giáo lý căn bản của Cựu Ước, đặc biệt là Mười Điều răn. Dù vậy, họ tin rằng cuộc đời và sự dạy dỗ của Chúa Giê-su, như được ký thuật trong Tân Ước, soi rọi ánh sáng trên mối tương giao mật thiết giữa Thiên Chúa và loài người - bằng cách nhìn xem tình yêu thương và sự thương xót là lớn hơn các điều luật, bằng cách giảm nhẹ các luật lệ nghi lễ (như kiêng cữ một số thức ăn hoặc các nghi thức thờ phụng) và bằng cách giao cho các sứ đồ của Ngài sứ mạng rao giảng Lời của Thiên Chúa.
Các bản Kinh Thánh được phổ biến rộng rãi trong cộng đồng Kitô giáo là: Bản Kinh Thánh Bảy mươi tiếng Hi Lạp, bản Kinh Thánh Vulgate tiếng Latinh, bản Kinh Thánh King James tiếng Anh và bản Kinh thánh Synodal tiếng Nga.
Ngoài ra còn có nhiều sách khác được viết bởi các cá nhân hoặc bởi các công đồng. Một số giáo hội công nhận các tác phẩm này như là phần bổ sung cho các sách của Kinh Thánh trong khi các giáo hội khác khước từ công nhận chúng.
Hồi giáo chỉ có duy nhất một sách thánh, Kinh Qur'an, gồm 114 chương (surat). Cũng theo Kinh Qur'an các chương này được mặc khải cho tiên tri Muhamad bởi thiên sứ trưởng Gabriel và được giữ gìn bởi các môn đồ của Muhamad cho đến khi chúng được biên tập thành một quyển sách duy nhất (không sắp xếp theo thứ tự thời gian) vài thập niên sau khi ông qua đời.
Kinh Qur'an chứa đựng vài câu chuyện lấy từ Kinh thánh Do Thái (chủ yếu trong sura 17, Con cái của Israel), nhiều lần nhắc đến Chúa Giê-xu như là một tiên tri được soi dẫn bởi Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhìều điều luật trong Tanakh và Tân Ước không được chấp nhận hoàn toàn nhưng được thay thế bởi các điều luật mà họ tin là được Allah mặc khải trực tiếp cho Muhamad (qua Gabriel).
Giống như người Do Thái giáo, người Hồi giáo xem bản văn tiếng Ả Rập của kinh Qur'an là thánh cho đến từng câu chữ. Cũng như Luật truyền khẩu được thêm vào Kinh Thánh Hêbrơ, Kinh Qur'an được bổ sung bởi Hadith, bộ sách được viết sau này nhằm ký thuật lời giảng của Tiên tri Muhamad. Kinh Hadith giải thích và chi tiết hoá các điều luật trong Kinh Qur'an.
Kinh Hadith và chuyện kể về cuộc đời của Muhamad lập nên Kinh Sunnah, bộ kinh sách bổ sung cho Kinh Qur'an.
Tuy nhiên, vào thế kỷ 20, những tín đồ Hồi giáo tự xưng là "Những người thuận phục" qui tụ thành một nhóm mà niềm xác tín trọng tâm là Kinh Qur'an là kinh thánh hợp pháp duy nhất, Kinh Hadith và Sunnah là những tác phẩm không được soi dẫn bởi thần quyền. Quan điểm này đặt họ vào thế đối nghịch với nhiều nhóm Hồi giáo khác, đặc biệt khi họ đem xác tín nền tảng số một của Hồi giáo truyền thống "Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất và Muhamad là tiên tri của Ngài" ra phân tích và chỉ giữ lại phần đầu "Chỉ có một Thiên Chúa duy nhất", họ cho rằng phần còn lại là khuyến khích thờ lạy hình tượng.
Các tín đồ của Giáo hội Mặc Môn không chỉ tin kinh Tân Ước và Cựu Ước mà còn họ tin Sách Mặc Môn, Giáo Lý & Giao Ước và Trân Châu Vô Giá là những quyển thánh thư mà góp phần mang phúc âm trọn vẹn của Thiên Chúa đến muôn người.
Các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham đều bày tỏ niềm tin vào ngày tận thế và thời điểm Vương quốc của Thiên Chúa đến trên đất. Do Thái giáo mong đợi sự hiện đến của Đấng Messiah. Kitô giáo trông mong sự tái lâm của Chúa Kitô. Tín đồ Hồi giáo trông chờ cả sự tái lâm của Chúa Giê-su (để hoàn tất cuộc đời và chết vì họ tin rằng Chúa Giê-su vẫn sống và chưa hề bị đóng đinh) và sự trở lại của Mahdi (Sunnis trong sự hoá thân đầu tiên và Shi'as sự trở lại của Muhamad al-Mahdi).
Quan điểm của Do Thái giáo về "cuộc sống sau cái chết" là đa dạng. Có thể do tôn giáo này chỉ chú tâm đến cuộc sống hiện tại, không phải đến điều gì sẽ xảy ra sau cái chết. Không có nghĩa là Do Thái giáo không tin vào thế giới bên kia, chỉ đơn giản không xem đó là điều quan trọng.
Nhiều người tin rằng "cuộc sống sau cái chết" là một tiến trình thanh tẩy trước khi được chấp nhận vào thế giới bên kia. Thân thể sẽ nhận hình phạt trong Sheol, hay trong mồ mả, và linh hồn được thanh tẩy tại Gehena, hay ngục luyện tội. Trong ngục luyện tội, mọi linh hồn được thanh tẩy bằng cách xét lại cuộc sống của mình và nhận ra những lỗi lầm mà mình đã phạm. Tiến trình này kéo dài tối đa là một năm, thời gian đủ để tẩy sạch linh hồn bẩn thỉu nhất. Nhiều người khác cho rằng linh hồn những người gian ác nhất được thanh tẩy hoàn toàn tại Abbadon. Điều gì xảy ra sau tiến trình thanh tẩy để có thể được lên vườn Eden vẫn còn là vấn đề đang tranh luận.
Đời sau là một trong những khái niệm nền tảng của thần học Kitô giáo. Tội nhân sẽ nhận lãnh sự trừng phạt tại Hỏa ngục và bị phân cách với Thiên Chúa đời đời. Ngược lại, người công chính sẽ được tiếp rước vào cuộc sống phước hạnh đời đời, thân cận với Thiên Chúa ở Thiên đàng hoặc "Vương quốc của Thiên Chúa". Một số nền thần học Kitô giáo chấp nhận ngục luyện tội tương tự như Gehena của Do Thái giáo, nơi linh hồn phạm tội nhẹ sẽ được thanh tẩy trong một thời gian trước khi được lên Thiên đàng.
Khái niệm về đời sau nơi con người sẽ được tưởng thưởng hoặc trừng phạt vì cớ những gì họ làm trong đời này ảnh hưởng toàn diện trên tư duy và nghi lễ Kitô giáo. Con người có thể nhận lãnh sự tha thứ từ Thiên Chúa khi thật tâm hối cải. Theo đức tin Công giáo, chỉ có thể có được sự tha tội khi xưng tội với linh mục, người có thể yêu cầu người xưng tội cầu nguyện như một hình thức sửa phạt; đây là một trong bảy bí tích theo nghi thức Công giáo. Một số giáo phái yêu cầu sự xưng tội công khai trước mọi người. Trải qua nhiều thế kỷ, một số cộng đồng Kitô giáo phát triển các nghi lễ tự trừng phạt, từ đi hành hương đến các nơi thánh đến tự hành xác. Nhiều giáo phái Kháng Cách (Protestantism) tin rằng đức tin là chìa khoá dẫn đến sự tha thứ và cứu rỗi, các việc lành cũng xuất phát từ đức tin (sola fide).
Việc giáo hội phân phối sự tha tội để nhận lại tiền quyên tặng dưới hình thức bán phép ân xá vào cuối thời kỳ Trung cổ là một trong những nguyên nhân dẫn đến Cuộc Cải cách Kháng nghị (Protestant Reformation).
Khái niệm về đời sau, về sự cứu chuộc và về sự trừng phạt đời đời được nói đến trong Tân Ước nhưng không có nhiều chi tiết. Sự miêu tả về Hỏa ngục và Thiên đàng vẫn đang là những suy diễn của các nhà thần học. Tuy nhiên, sự miêu tả Hỏa ngục như là nơi chốn đầy "lửa và diêm sinh" với nhiều sự đau đớn là khái niệm phổ biến rộng rãi theo suốt dòng lịch sử.
Thần học Kitô giáo bác bỏ khái niệm linh hồn người chết hiện diện trong thế giới người sống như đầu thai, nhập vào người sống, người chết hiện về. Theo khái niệm, những hiện tượng ma quỷ do quyền lực ma quỷ (Satan) tạo nên nhằm làm suy yếu đức tin của các Kitô hữu. Một vài giáo phái tin vào hiện tượng quỷ ám, nhưng họ cho rằng đây là bởi quyền lực ma quỷ, không phải bởi linh hồn người chết. Nhiều người tin linh hồn các người thánh đã chết thỉnh thoảng hiện về với người sống trong "khải tượng" để dẫn dắt và giúp đỡ. Những vị thánh này cũng được cầu khấn như là những trung gian giữa con người và Thiên Chúa.
Người Hồi giáo tin vào một địa ngục thiêu đốt dành cho người không vâng phục Thiên Chúa và phạm tội trọng. Những người thờ phụng Ngài được hứa sẽ nhận lãnh sự sống vĩnh cửu trên thiên đàng. Thiên đàng được chia thành bảy tầng (vì vậy có thuật ngữ "bảy tầng trời"), tầng trên cùng dành cho người chết vì đức tin. Nhờ hối cải mọi tội đều được tha vì Thiên Chúa được miêu tả là Đấng hay thương xót.
Ngoại trừ một vài khác biệt nhỏ, các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham đều theo chu kỳ bảy ngày, trong đó một ngày được chọn để biệt riêng ra cho thờ phụng, cầu nguyện và các hoạt động tôn giáo khác. Tập tục này xuất phát từ câu chuyện sáng thế được chép trong Kinh Thánh, khi Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ trong sáu ngày và Ngài nghỉ vào ngày thứ bảy. Hồi giáo chọn ngày thứ sáu dành cho sự cầu nguyện tập thể, không phải là "ngày nghỉ". Chu kỳ 7 ngày này được cho là có nguồn gốc từ người Babylon, vì Abraham ra đi từ thành Ur của người Babylon; người Babylon theo chu kỳ 7 ngày là do quan sát thiên văn thấy có 7 thiên thể di chuyển trên bầu trời: Mặt Trời, Mặt Trăng, Sao Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
Cả Do Thái giáo và Hồi giáo xem phép cắt bao quy đầu là dấu chứng cho đức tin trong khi Kitô giáo dùng lễ Thanh Tẩy (Lễ Rửa tội hay Báp têm) thay thế cho dấu chứng này. Nghi thức Thanh Tẩy khác nhau giữa các giáo hội Kitô giáo nhưng cũng chỉ là những chọn lựa giữa dầm mình trong nước (immersion), rảy nước (aspersion) hoăc xức nước (anointment).
Do Thái giáo và Hồi giáo đều thiết lập những luật lệ nghiêm khắc trong kiêng cữ thức ăn như luật kosher của Do Thái giáo và luật halaal của Hồi giáo. Cả hai đều cấm ăn thịt lợn, Hồi giáo nghiêm cấm mọi loại rượu.
Kitô giáo trước đây không cho phép dùng thịt (không phải cá) vào các ngày thứ sáu trong một vài thời gian trong năm, nhưng luật này hoặc bị huỷ bỏ hoặc làm giảm nhẹ tại nhiều giáo hội.
Kitô giáo và Hồi giáo đều chú trọng vào việc truyền bá đức tin, nhiều tổ chức Kitô giáo gửi giáo sĩ đến hầu như khắp nơi trên thế giới để thuyết phục người khác chia sẻ đức tin của mình.
Seamless Wikipedia browsing. On steroids.
Every time you click a link to Wikipedia, Wiktionary or Wikiquote in your browser's search results, it will show the modern Wikiwand interface.
Wikiwand extension is a five stars, simple, with minimum permission required to keep your browsing private, safe and transparent.