Constantinus Đại đế
vị hoàng đế La Mã đầu tiên cải đạo sang Kitô giáo, trị vì từ năm 306 đến năm 337 / From Wikipedia, the free encyclopedia
Flavius Valerius Aurelius Constantinus[3] (sinh vào ngày 27 tháng 2 khoảng năm 280[2] – mất ngày 22 tháng 5 năm 337), thường được biết đến là Constantinus I, Constantinus Đại Đế hay Thánh Constantinus (đối với các tín hữu Chính thống giáo Đông phương), là hoàng đế La Mã từ năm 306 đến khi mất. Constantinus I là vua La Mã đầu tiên cải đạo sang Ki-tô giáo và là người đã ban bố Sắc lệnh Milano chấm dứt thảm sát tín đồ Ki-tô giáo trong toàn đế quốc
Constantinus I | |||||
---|---|---|---|---|---|
Hoàng đế La Mã | |||||
Tượng Constantinus I tại nhà bảo tàng Capitoline. Bức tượng đá hoa nguyên gốc được tạc theo kiểu Hậu Cổ đại, với phần người trên mặc bộ chiến bào màu đồng thiếc.[1] | |||||
Hoàng đế nhà Constantinus | |||||
Trị vì | 25 tháng 7 năm 306 - 29 tháng 10 năm 312[chú thích 1]; 29 tháng 10 năm 312 - 19 tháng 9 năm 324[chú thích 2]; 19 tháng 9 năm 324 - 22 tháng 5 năm 337[chú thích 3] (30 năm, 301 ngày) | ||||
Tiền nhiệm | Constantius Chlorus | ||||
Kế nhiệm | Constantinus II Constantius II Constans I | ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | 27 tháng 2, khoảng năm 274[2] Naissus (nay là Niš, Serbia) | ||||
Mất | (337-05-22)22 tháng 5 năm 337 | ||||
Phối ngẫu | Minervina, mất hoặc ly hôn trước năm 307 Fausta | ||||
Hậu duệ |
| ||||
| |||||
Triều đại | Nhà Constantinus | ||||
Thân phụ | Constantius Chlorus | ||||
Thân mẫu | Thánh Helena | ||||
Tôn giáo | Công giáo, trước đó là thờ đa Thần |
Constantinus I là con của vua Constantius Chlorus, đã lên kế vị tại York (nước Anh ngày nay) sau khi phụ hoàng chết năm 306.[4] Ông là nhà lãnh đạo đầu tiên trong lịch sử phương Tây thực hiện chính sách tự do tôn giáo; nhưng trên thực tế, Constantinus không phải là một tín đồ Kitô giáo và sử dụng hình ảnh của Chúa trong việc đánh bại các phe đối lập trong nước và củng cố quyền lực của mình.[5] Lịch phụng vụ nghi lễ Byzantium, được Giáo hội Chính thống giáo Đông phương và các giáo hội Công giáo Đông phương tuân giữ, liệt kê cả Constantinus I và mẹ của ông là Helena là hai vị Thánh. Mặc dù không được kể vào danh sách các vị Thánh của Giáo hội Công giáo Latinh (Tây phương) nhưng Constantinus I vẫn được họ kính trọng với danh hiệu "Đại Đế" vì những đóng góp của ông cho Kitô giáo. Nhiều giáo dân Ki-tô coi Constantinus I cùng với Chúa Giêsu và Thánh Phaolô là 3 nhân vật quan trọng nhất trong quá trình thành lập và phát triển của giáo hội Ki-tô giáo.[6]
Về đối ngoại, triều đại Constantinus chứng kiến nhiều cuộc chiến tranh giữa La Mã với các man tộc phía bắc. Constantinus đã đánh bại các bộ tộc Frank, Sarmatia và Goth và ép nhiều người thuộc các sắc dân này gia nhập quân đội La Mã.[7] Năm 324, Constantinus I tuyên bố đổi tên thành phố Byzantium thành Tân La Mã (Nova Roma) và vào 11 tháng 5 năm 330 ông chính thức dời đô về Nova Roma.[6] Sau khi Constantinus chết năm 337, chính phủ La Mã đã đổi tên thủ đô mới thành Constantinopolis, có nghĩa là Thành phố của Constantinus. Thành Constantinopolis vẫn là thủ đô của Đế quốc Đông La Mã trên hơn một ngàn năm, chỉ bị ngắt quãng tạm thời bởi sự đốt phá và chiếm đóng của quân Thập tự chinh lần thứ tư năm 1204, cho đến khi rơi vào người Thổ Nhĩ Kỳ năm 1453. Mặc dù là một hoàng đế có công tích lừng lẫy, Constantinus đã bị nhiều người thời hậu cổ đại và cận đại (trong đó có cả cháu ông là vua Julianus sau này) phê phán như một hôn quân bạo chúa, đã gây nhiều tai họa đối với thần dân và ích kỷ chỉ theo đuổi lợi ích riêng của mình.[8]