Chụp cắt lớp vi tính
Kỹ thuật hình ảnh y tế sử dụng kết hợp nhiều phép đo tia X được xử lý bằng máy tính được thực hiện từ các góc độ khác nhau để tạo ra hình ảnh chụp cắt lớp của cơ thể / From Wikipedia, the free encyclopedia
Chụp cắt lớp vi tính (thường được viết tắt là chụp CT; trước đây được gọi là chụp cắt lớp trục vi tính hoặc quét CAT) là một kỹ thuật hình ảnh dùng trong y tế được sử dụng để có được hình ảnh bên trong chi tiết của cơ thể. Nhân viên thực hiện chụp CT được gọi là kỹ thuật viên chụp X quang hoặc kỹ thuật viên X quang.[1][2]
Chụp cắt lớp vi tính | |
---|---|
Phương pháp can thiệp | |
Máy chụp CT hiện đại (2021), chụp cắt lớp vi tính đếm quang tử (Siemens NAEOTOM Alpha) | |
ICD-10-PCS | B?2 |
ICD-9-CM | 88.38 |
MeSH | D014057 |
OPS-301 code: | 3–20...3–26 |
MedlinePlus | 003330 |
Máy quét CT sử dụng một đèn phát tia X quay và một dãy đầu dò được đặt trong khung cổng để đo độ suy giảm tia X của các mô khác nhau bên trong cơ thể. Nhiều phép đo tia X được thực hiện từ các góc độ khác nhau sau đó được xử lý trên máy tính bằng thuật toán tái tạo chụp cắt lớp để tạo ra hình ảnh chụp cắt lớp (mặt cắt ngang) ("lát cắt ảo") của cơ thể.
CT scan có thể được sử dụng ở những bệnh nhân cấy ghép kim loại hoặc máy điều hòa nhịp tim, những người bị chống chỉ định chụp cộng hưởng từ (MRI).
Kể từ khi được phát triển vào những năm 1970, chụp CT đã được chứng minh là một kỹ thuật hình ảnh linh hoạt. Mặc dù CT được sử dụng phổ biến nhất trong chẩn đoán y tế, nhưng cũng có thể được ứng dụng để tạo hình ảnh của các vật thể không còn sống.
Giải Nobel Sinh lý học hoặc Y học năm 1979 được trao chung cho nhà vật lý người Mỹ gốc Nam Phi, Allan MacLeod Cormack và kỹ sư điện người Anh là Godfrey Hounsfield "vì sự phát triển của kỹ thuật chụp cắt lớp có sự hỗ trợ của máy tính"[3]