Chính quyền Uông Tinh Vệ
From Wikipedia, the free encyclopedia
Chế độ Uông Tinh Vệ là tên gọi của giới sử gia dành cho Chính phủ Cải tổ Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc (Tiếng Trung Quốc: 中華民國國民政府; Bính âm : Zhōnghuá mínguó guómín zhengfǔ), chính phủ của quốc gia bù nhìn do Đế quốc Đại Nhật Bản thành lập ở vùng Hoa Đông, gọi đơn giản là Trung Hoa Dân Quốc, do Uông Tinh Vệ đứng đầu. Không nên nhằm lẫn với Trung Hoa Dân Quốc của Tưởng Giới Thạch, đang chiến đấu cùng với phe Đồng minh chống lại Nhật Bản trong thời kỳ này. Đất nước được xây dựng theo mô hình nhà nước đơn đảng dưới sự lãnh đạo của Uông Tinh Vệ, một cựu quan chức Quốc Dân Đảng (KMT). Khu vực ban đầu nó quản lí ban đầu bị Nhật Bản chiếm đóng trong suốt những năm 1930 khi bắt đầu Chiến tranh Trung - Nhật.
Trung Hoa Dân Quốc
(Nam Kinh) |
|||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tên bản ngữ
| |||||||||||||
1940–1945 | |||||||||||||
Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc của Uông Tinh Vệ (đỏ sẫm) trên lãnh thổ Trung Quốc và các thuộc địa khác (đỏ nhạt) của Nhật Bản. | |||||||||||||
Tổng quan | |||||||||||||
Vị thế | Chính phủ bù nhìn của Đế quốc Nhật Bản | ||||||||||||
Thủ đô | Nam Kinh | ||||||||||||
Ngôn ngữ thông dụng | Tiếng Trung, Tiếng Nhật | ||||||||||||
Chính trị | |||||||||||||
Chính phủ | Chế độ độc tài đơn đảng | ||||||||||||
Tổng thống | |||||||||||||
• 1940–1944 | Uông Tinh Vệ | ||||||||||||
• 1944–1945 | Trần Công Bác | ||||||||||||
Phó tổng thống | |||||||||||||
• 1940–1945 | Chu Phật Hải | ||||||||||||
Lịch sử | |||||||||||||
Thời kỳ | Thế chiến II | ||||||||||||
• Thành lập | 30 tháng 3 năm 1940 | ||||||||||||
• Được Nhật Bản công nhận | 20 tháng 11 năm 1940 | ||||||||||||
• Giải thể | 16 tháng 8 năm 1945 | ||||||||||||
| |||||||||||||
Uông Tinh Vệ là một đối thủ của Tưởng Giới Thạch và là thành viên của phe ủng hộ hòa bình với Nhật Bản của Quốc dân đảng, đã đào tẩu sang phía Nhật Bản và thành lập một chính phủ cộng tác ở Nam Kinh bị Nhật Bản chiếm đóng vào năm 1940. Nhà nước mới tuyên bố chủ quyền toàn bộ Trung Quốc trong suốt thời gian tồn tại, tự cho mình là người kế thừa hợp pháp của Cách mạng Tân Hợi và di sản của Tôn Trung Sơn trái ngược với chính quyền của Tưởng Giới Thạch ở Trùng Khánh, nhưng thực tế chỉ có lãnh thổ do Nhật Bản chiếm đóng. kiểm soát trực tiếp của nó. Sự công nhận quốc tế của nó chỉ giới hạn đối với các thành viên khác của Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản mà nó đã là một bên ký kết. Chính phủ Quốc gia được Tổ chức lại tồn tại cho đến khi kết thúc Thế chiến thứ hai và sự đầu hàng của Nhật Bản vào tháng 8 năm 1945, tại thời điểm đó, chế độ này bị giải thể và nhiều thành viên lãnh đạo của nó bị xử tử vì tội phản quốc.
Chính phủ Quốc dân Nam Kinh về danh nghĩa là được hình thành do việc tái hòa nhập các thực thể mà Nhật Bản đã thành lập trước đó tại Hoa Bắc và Hoa Đông, bao gồm Chính phủ Duy tân Trung Hoa Dân Quốc ở Hoa Đông, Chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc ở Hoa Bắc, và chính phủ Mông Cương tại Nội Mông mặc dù vậy trên thác chế độ này không hơn gì cánh tay của giới lãnh đạo quân sự Nhật Bản và không nhận được sự công nhận ngay cả từ chính Nhật Bản hoặc các đồng minh của họ. Tuy nhiên, sau năm 1940, lãnh thổ cũ của Chính phủ Lâm thời vẫn bán tự trị khỏi sự kiểm soát của Nam Kinh, với tên gọi "Hội đồng Chính trị Hoa Bắc". Vùng Mông Cương chỉ nằm dưới chính quyền của Uông Tinh Vệ trên danh nghĩa. Chế độ của ông cũng bị cản trở bởi thực tế là quyền lực mà người Nhật trao cho nó là cực kỳ hạn chế, và điều này chỉ được thay đổi một phần khi ký kết một hiệp ước mới vào năm 1943, trao cho nó chủ quyền nhiều hơn khỏi sự kiểm soát của Nhật Bản. Người Nhật phần lớn coi đó không phải là dấu chấm hết mà là phương tiện để kết thúc, là cầu nối cho các cuộc đàm phán với Tưởng Giới Thạch, khiến họ thường đối xử với Uông Tinh Vệ bằng sự thờ ơ.