Chiến tranh Liên Xô – Phần Lan
cuộc chiến giữa Liên Xô và Phần Lan từ năm 1939 đến năm 1940 / From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến tranh Mùa đông (tiếng Phần Lan: talvisota, tiếng Thụy Điển: vinterkriget, Nga: Зи́мняя война́, chuyển tự. Zimnyaya voyna) hay Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan 1939-1940[25] là cuộc chiến giữa Liên Xô và Phần Lan do tranh chấp lãnh thổ tại vùng Karelia. Nó diễn ra vào thời kỳ đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai, khi quân đội Đức đã tràn vào Áo, Tiệp Khắc, và sau đó là Ba Lan.
Chiến tranh Mùa Đông | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến trường Châu Âu thuộc Thế chiến thứ hai | |||||||||
Tổ súng máy của Phần Lan | |||||||||
| |||||||||
Tham chiến | |||||||||
Phần Lan |
Liên Xô Hỗ trợ: Cộng hòa Dân chủ Phần Lan (sau đó sáp nhập vào Nga Xô viết) | ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
Carl Gustaf Emil Mannerheim Kyösti Kallio Risto Ryti |
Joseph Stalin Kirill Meretskov Kliment Yefremovich Voroshilov, sau bị thay thế bởi Semyon Konstantinovich Timoshenko[3] | ||||||||
Lực lượng | |||||||||
337.000-346.000[4][5] 32 tăng[6] 216 phi cơ (114 máy bay chiến đấu)[7] |
425.000-760.000 quân[8][9] 2.514–6.541 xe tăng, 1.691 xe thiết giáp [10] 3.800 phi cơ[11][12] | ||||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||||
25.904 chết[13] 43.557 bị thương ~1.500 dân thường bị chết[14] 20-30 xe tăng 62 máy bay [15] Tổng số: 71.000 thương vong trong chiến đấu (chưa tính thương vong ngoài chiến đấu) |
126.875-167,976 chết hoặc mất tích[16][17][18] 188.671-207,538 bị thương hoặc bị ốm[16][17] (bao gồm 61,506 bị ốm hoặc bị lạnh cóng[19]) 5.600 bị bắt[20] 261-515 máy bay[21] 1,200–3,543 xe tăng và xe bọc thép bị phá hủy hoặc hư hại.[22][23][24] Tổng thương vong: 321.000-381.000 (bao gồm 250.000 thương vong trong chiến đấu) |
Cuộc chiến tranh ngắn nhưng khốc liệt này[26] diễn ra vào một trong những mùa đông khắc nghiệt nhất thế kỷ 20, có thời điểm binh lính hai bên đã phải chiến đấu trong nhiệt độ tụt xuống mức −43 °C (−45 °F). Ngày 5 tháng 10 năm 1939, Stalin đề nghị Phần Lan trao đổi một phần lãnh thổ của nước này với Liên Xô[27] do lo ngại Phần Lan sẽ đứng cùng phe với Đức Quốc xã (đặc biệt là khi cố đô Leningrad chỉ cách biên giới Phần Lan thời đó 32 km).[27][28] Chính phủ Phần Lan đã từ chối những yêu cầu này, dẫn tới việc Stalin huy động Hồng quân tấn công vào lãnh thổ Phần Lan. Một số sử gia cho rằng Liên Xô có ý định chiếm đóng hoàn toàn Phần Lan và dựng lên một chính quyền thân Liên Xô ở đây [29][30][31][32][33][34], trong khi một số khác lại bác bỏ quan điểm này[35][36][37], người Nga thì cho rằng cuộc chiến là một nỗ lực của Liên Xô nhằm khôi phục chủ quyền lãnh thổ, khi nước Nga Xô viết đang rối loạn vì nội chiến nên đã phải cắt nhượng những vùng lãnh thổ đáng kể cho Phần Lan vào năm 1920.[38]
Quân Phần Lan đã chiến đấu tốt và gây cho Hồng quân một vài thất bại, giúp động viên tinh thần người Phần Lan. Nhưng sau 100 ngày quyết chiến, họ thất trận và phải nhượng lại một phần của Tây Karelia cho Liên bang Xô viết.[1][39][40] Đây cũng được xem là một chiến thắng đắt giá của Liên Xô, bất chấp sự xem nhẹ ban đầu của nhà lãnh đạo tối cao Iosif Vissarionovich Stalin và Nguyên soái Kliment Yefremovich Voroshilov đối với quân Phần Lan.[41] Những sai lầm chiến thuật của Hồng quân, cũng như chiến thuật tốt của quân Phần Lan[42] đã khiến cho họ cầm cự được lâu hơn hẳn dự kiến của Liên Xô, do đó đây được xem là một thắng lợi tinh thần của họ. Vị thế quốc tế của Phần Lan được gia tăng, trong khi Liên Xô, với tổn thất lớn, thì ngược lại.[2][43] Nhưng dù sao, Liên Xô đã có thể thu hồi lại được khu vực chiến lược Karelia nhằm củng cố phòng thủ đất nước trước cuộc chiến sắp nổ ra với Đức Quốc xã.[1]