Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp
From Wikipedia, the free encyclopedia
Cuộc Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp (1821–1829), cũng được biết đến với tên gọi Cuộc chiến tranh cách mạng Hy Lạp (tiếng Hy Lạp: Ελληνική Επανάσταση, Elliniki Epanastasi; tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: يؤنان ئسياني Yunan İsyanı), là cuộc cách mạng của nhân dân Hy Lạp nằm dưới sự cai trị của Đế quốc Ottoman, nhằm mục đích giành độc lập khỏi Thổ. Sau một cuộc đấu tranh lâu dài và đẫm máu, với sự giúp đỡ của các cường quốc Âu châu, cuối cùng Hy Lạp cũng giành được độc lập sau bản Hiệp ước Constantinopolis vào tháng 7 năm 1832. Như vậy người Hy Lạp là dân tộc đầu tiên dưới quyền cai trị của đế quốc Ottoman giành được tự do với tư cách là một vương quốc độc lập có chủ quyền. Lễ kỷ niệm ngày độc lập (25 tháng 3 năm 1821) là ngày quốc khánh ở Hy Lạp, trùng với ngày Lễ Truyền Tin cho Đức Mẹ Maria.
Chiến tranh giành độc lập Hy Lạp | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Các cuộc chiến tranh giành độc lập | |||||||
Giám mục Germanos ban phước lành cho lá cờ Hy Lạp tại Agia Lavra. Tranh sơn dầu của Theodoros Vryzakis, năm 1865. | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
Quân khởi nghĩa Hy Lạp Liên hiệp Anh Pháp Nga |
Đế quốc Ottoman Ai Cập | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
Alexander Ypsilanti Theodoros Kolokotronis Konstantinos Kanaris Georgios Karaiskakis † |
Mahmud II Omer Vryonis Mahmud Dramali Pasha † Reşid Mehmed Pasha Ibrahim Pasha | ||||||
Lực lượng | |||||||
100.000 quân Hy Lạp [cần dẫn nguồn] 5.500 quân liên minh Anh, Pháp, Nga |
400.000 quân Ottoman [cần dẫn nguồn] 12.000 quân Ai Cập [cần dẫn nguồn] | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
50.000 quân Hy Lạp, 181 quân Anh, Pháp và Nga [cần dẫn nguồn] | 115.000 quân Ottoman; 5.000 quân Ai Cập[cần dẫn nguồn] |