![cover image](https://wikiwandv2-19431.kxcdn.com/_next/image?url=https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/5/5b/Tau_xam_luoc_vietnam_1406-07.jpg/640px-Tau_xam_luoc_vietnam_1406-07.jpg&w=640&q=50)
Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh
From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh, Chiến tranh Hồ – Minh, hay thường được giới sử học Việt Nam gọi là cuộc xâm lược của nhà Minh, là cuộc chiến của nhà Hồ nước Đại Ngu (Đại Việt) chống lại cuộc xâm lược của nhà Minh (Trung Quốc) dưới triều Minh Thành Tổ từ tháng 4 năm 1406 cho đến tháng 6 năm 1407 khi nhà Minh đánh bại hoàn toàn quân đội nhà Hồ và bắt được Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương.
![]() | Bài này chứa trích dẫn quá nhiều hoặc quá dài cho một bài viết bách khoa. (tháng 3/2024) |
Chiến tranh Đại Ngu – Đại Minh (1406–1407) | |||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
![]() | |||||||||
| |||||||||
Tham chiến | |||||||||
Đại Ngu thời Nhà Hồ | Nhà Minh | ||||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||||
Hồ Quý Ly Hồ Hán Thương Hồ Nguyên Trừng Hồ Quý Tỳ † Ngô Miễn Hồ Đỗ Hồ Xạ Nguyễn Tông Đỗ Ngô Thành Phan Liêu (POW) Mạc Thúy (POW) Lương Nhữ Hốt (POW) Phạm Thế Căng (POW) Trần Phong (POW) Bùi Bá Kỳ (POW) Nguyễn Huân (POW) Đỗ Duy Trung (POW) Nguyễn Phi Khanh (POW) Nguyễn Trãi (POW) |
Minh Thành Tổ Trương Phụ Vương Hữu Mộc Thạnh Hoàng Phúc Lưu Tuấn Hoàng Trung Liễu Thăng Chu Quảng Lý Bân Trần Húc | ||||||||
Lực lượng | |||||||||
Khoảng 70.000-200.000[1] | Khoảng 215.000 (nói phao lên thành 800.000)[2] | ||||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||||
Hầu hết bị tiêu diệt, đầu hàng hoặc tan rã | Không rõ |
Năm 1400, Hồ Quý Ly bức vua nhà Trần – Đại Việt nhường ngôi cho mình, lập ra nhà Hồ – Đại Ngu. Hồ Quý Ly đã thực hiện những thay đổi về tiền giấy, hành chính, quân đội, chuyển kinh đô từ Thăng Long về Thanh Hóa,... nhằm phát triển Đại Ngu và có thể chống lại một cuộc xâm lược từ nhà Minh. Ba năm sau, nhà Hồ dùng 20 vạn quân để tấn công quốc gia phía Nam là Chiêm Thành, vây kinh đô Chiêm Thành 9 tháng nhưng sau đó rút quân về do thiếu lương thực. Nhà Minh đã cư xử với Chiêm Thành như một đồng minh bằng cách sai 9 chiến thuyền sang cứu, quân thủy nhà Minh và nhà Hồ khi quay về gặp nhau giữa biển nhưng không có xung đột nào xảy ra.
Nhà Minh đã gây sức ép lên nhà Hồ bằng các đòi hỏi về người, lương thực, đất đai, của cải,... nhưng nhà Hồ chỉ đáp ứng cho nhà Minh theo cách mà gây ít thiệt hại nhất cho họ. Đến tháng 4 năm 1406, nhà Minh lấy cớ đưa Trần Thiêm Bình[lower-alpha 1] về Đại Ngu để mang quân đánh vào ải Lãnh Kinh. Đội quân này bị đánh bại, nhưng nhà Hồ đã mất bốn đại tướng chỉ huy quân các vệ. Ba tháng sau, nhà Minh huy động 215.000 quân, nói phao lên thành 80 vạn quân, chia làm 2 đường tấn công Đại Ngu. Đại Ngu đã không phòng thủ ở biên giới, mà tập trung phòng thủ ở bờ Nam sông Hồng. Quân Minh với sự dẫn đường của các ngụy quan đầu hàng người Việt đã đánh bại Đại Ngu ở trận Mộc Hoàn, sau đó là trận Đa Bang, chiếm được Đông Đô. Quân Minh tiếp tục đánh bại hoàn toàn quân chủ lực của Đại Ngu ở trận Hàm Tử, khiến cho nhà Hồ phải rút lui về Thanh Hóa, và bắt được cha con Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương vào tháng 6 năm 1407, nhà Hồ hoàn toàn chấm dứt.
Nhà Minh đặt ách đô hộ lên nước Việt, họ tự đặt nước Việt trở thành một tỉnh của Trung Quốc, Đại Ngu còn mất đi lãnh thổ mà họ chiếm được của Chiêm Thành trước đó khi Chiêm Thành nhân cơ hội đã đưa quân chiếm lại. Các sử quan người Việt khi biên soạn sách chính sử Đại Việt sử ký toàn thư vào thời Lê sơ ở thế kỷ 15 (xem Ngô Sĩ Liên) và thời Lê – Trịnh ở thế kỷ 17 (xem Phạm Công Trứ) đã không coi nhà Hồ như một triều đại chính thống như một sự phủ nhận về mặt pháp lý của nhà Minh lên lãnh thổ nước Việt. Họ cũng coi Nhà Hậu Trần là một triều đại chính thống từ năm (1407–1414) và tiếp đó là khởi nghĩa của Lê Lợi năm 1418 đã thành lập nên Nhà Hậu Lê như một sự tiếp diễn về mặt lịch sử mà nhà Minh chỉ là lực lượng chiếm đóng tạm thời.