Hoạt động quân sự lớn của quân Liên hiệp Anh tại mặt trận Bắc-Phi From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến dịch Crusader là một hoạt động quân sự lớn do Tập đoàn quân số 8 Anh tiến hành từ ngày 18 tháng 11 đến 30 tháng 12 năm 1941, một phần của Chiến dịch Sa mạc Tây trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Chiến dịch này đã giải vây thắng lợi cho thành phố Tobruk đang bị phong tỏa trong cuộc vây hãm Tobruk năm 1941.
17.700 thương vong[Gc 7] ~800 xe tăng bị tiêu diệt, bị thương hoặc hỏng hóc[6][Gc 8] ~300 máy bay[8]
38.300 thương vong[Gc 9] 340 xe tăng bị tiêu diệt hoặc bị thương[Gc 10] ít nhất 332 máy bay bị mất[Gc 11]
Đóng
Kế hoạch ban đầu của Tập đoàn quân số 8 là tiêu diệt lực lượng thiết giáp của phe Trục trước khi đưa bộ binh tiến lên đã bị thất bại sau khi Sư đoàn Thiết giáp số 7 Anh đã bị Quân đoàn châu Phi của Đức đánh thua thê thảm tại Sidi Rezegh, sau một số trận giao chiến bất phân thắng bại. Tiếp đó, trung tướng Erwin Rommel đã thúc các sư đoàn thiết giáp của mình tiến đến các vị trí pháo đài của phe Trục trên biên giới Ai Cập nhưng không tìm được bộ binh chủ lực của Đồng Minh, vì họ đã bỏ qua các pháo đài và tiến về Tobruk. Do đó, Rommel phải rút các đơn vị thiết giáp về để hỗ trợ chiến sự tại Tobruk. Dù đã giành được một số thắng lợi chiến thuật tại đây, nhưng sự cần thiết phải bảo toàn phần lực lượng còn lại đã làm Rommel phải rút quân về tuyến phòng thủ tại Gazala, phía tây Tobruk, rồi đưa tất cả lên đường quay lại El Agheila. Đây là thắng lợi trên bộ đầu tiên của các lực lượng do Anh cầm đầu trước quân Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai.[10]
Kế hoạch tác chiến của Tập đoàn quân số 8
Tập đoàn quân số 8 tiến công
Quân đồn trú Tobruk gia nhập tấn công
Sư đoàn Thiết giáp số 7 thất bại tại Sidi Rezegh
Quân đoàn XIII cô lập các căn cứ của phe Trục trên biên giới Ai Cập
Rommel đánh đến biên giới Ai Cập
Quân đoàn XIII tận dụng việc tái triển khai quân thiết giáp Đức
Quân đoàn châu Phi trở lại Tobruk
Thay thế Cunningham
Rommel lên kế hoạch bao vây sư đoàn New Zealand
Rommel cố gắng lần nữa để giải vây các vị trí Sollum
Cố thủ Ed Duda
Tập đoàn quân số 8 thực hiện cam kkeets với Quân đoàn XXX
Quân đoàn XXX có sẵn 477 xe tăng, Quân đoàn XIII có sẵn 135 xe tăng và lực lượng đồn trú Tobruk có thêm 126 xe tăng. Trong số đó, 339 chiếc thuộc nhiều kiểu xe tăng Cruiser khác nhau, với 210 mẫu A15 Crusader mới nhất; 201 chiếc là xe tăng bộ binh, tuyệt đại đa số là loại Matilda II; 173 chiếc M3 Stuart; và 25 chiếc còn lại thuộc nhiều loại tăng bộ binh khác nhau.[3]
Phe Trục có một tiềm lực dự bị có thể tham chiến gồm 750 máy bay đóng tại Tripolitania, Sicilia, Sardinia, Hy Lạp và nhưng không kể số máy bay vận tải, máy bay đóng trên đất liền Ý hay không lực của Hải quân Ý.[4]
2.900 chết, 7.300 bị thương và 7.500 mất tích. Thương vong đã được làm tròn theo nguồn do những thiếu sót căn bản so với dữ liệu nguồn ban đầu nhưng bao gồm toàn bộ chiến sự nghiêm trọng trong tháng 11, 12 năm 1941 và nửa đầu tháng 1 năm 1942.[2]
Liddel-Hart tuyên bố rằng trong khi tổn thất của xe tăng Anh trong chiến dịch là rất nặng nề, nhưng do có một số lượng lớn xe tăng có thể phục hồi và sửa chữa được nhờ việc Rommel rút lui nên chỉ có 278 xe tăng bị hỏng vĩnh viễn.[7]
Con số thương vong 14.600 người của Đức được chia ra như sau: 1.100 chết, 3.400 bị thương và 10.100 mất tích. Thương vong 23.700 người của Ý bao gồm: 1.200 chết, 2.700 bị thương và 19.800 mất tích. Thương vong được làm tròn do những thiếu sót căn bản so với dữ liệu nguồn ban đầu nhưng bao gồm toàn bộ chiến sự nghiêm trọng trong tháng 11, 12 năm 1941 và nửa đầu tháng 1 năm 1942.[2]
"Từ 18 tháng 11 đến 20 tháng 1, quân Đức tại Libya, theo báo cáo của chính họ, bị mất ít nhất 232 máy bay do mọi nguyên nhân, còn Ý mất ít nhất 100 máy bay. Tổng số trong thực tế phải cao hơn, vì trên các sân bay và bãi đổ bộ từ Kambut đến Benina có không dưới 228 máy bay Đức và chừng ấy máy bay Ý được tìm thấy bị bỏ lại trong tình trạng hỏng hóc khác nhau..."[8]
Clifford, Alexander (1943). Three Against Rommel: The Campaigns of Wavell, Auchinleck and Alexander. London: George G. Harrap & Co.
Ford, Ken (2010). Operation Crusader 1941. Oxford: Osprey Publishing. ISBN1-84603-500-7.
French, David (2000). Raising Churchill's Army: The British Army and the War against Germany 1939–1945. Oxford: Oxford University Press. ISBN0-19-820641-0.
Gooch, John (ed.) (1990). Decisive Campaigns of the Second World War. London: Frank Cass. ISBN978-0-7146-3369-5.Quản lý CS1: văn bản dư: danh sách tác giả (liên kết)
Kippenberger, Howard (2007) [1949]. Infantry Brigadier. New Zealand Texts Collection. Wellington, NZ: New Zealand Electronic Text Centre. OCLC276433219.
Mason, Captain Walter Wynn (1954). “Chapter 4:The Second Libyan Campaign and After— (November 1941 – June 1942)”. Prisoners of War. Part of: The Official History of New Zealand in the Second World War 1939–1945. Howard Kippenberger (editor). Historical Publications Branch, Wellington. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2008.
Murphy, W.E. (1961). The Relief of Tobruk. The Official History of New Zealand in the Second World War 1939–1945. Fairbrother, Monty C. (editor). Wellington, NZ: War History Branch, Department of Internal Affairs. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2007.
Playfair, Major-General I.S.O.; with Flynn R.N., Captain F.C.; Molony, Brigadier C.J.C.; Gleave, Group Captain T.P. (2004) [1st. pub. HMSO 1960]. Butler, J.R.M (biên tập). The Mediterranean and Middle East, Volume III: British Fortunes reach their Lowest Ebb (September 1941 to September 1942). History of the Second World War United Kingdom Military Series. Naval & Military Press. ISBN1-84574-067-X.
Sadkovich, James. J. (1991). “Of Myths ad Men: Rommel and the Italians in North Africa”. The International History Review. XIII: 284–313. JSTOR40106368.