Cải cách kinh tế Cuba
From Wikipedia, the free encyclopedia
Cải cách kinh tế Cuba đề cập đến các chính sách kinh tế vĩ mô được thực hiện với mục đích ổn định nền kinh tế Cuba sau năm 1993. Ban đầu chúng được ban hành nhằm bù đắp sự mất cân đối kinh tế do Liên Xô tan rã vào năm 1991. Các cải cách tập trung chủ yếu vào việc ổn định kinh tế vĩ mô của nền kinh tế Cuba với mục tiêu nhắm đến đạt được thông qua việc giảm thâm hụt tài khóa và thông qua những thay đổi về cơ cấu như việc hợp pháp hóa tư doanh và phi danh nghĩa hóa đồng đô la Mỹ. Các cải cách kinh tế dẫn đến giảm lạm phát, đồng Peso tăng giá, tăng sản lượng và năng suất, đồng thời cải thiện tình trạng thiếu hụt tài chính. Những cải cách kinh tế của Cu-ba với mục tiêu trọng tâm là cập nhật mô hình phát triển và mở cửa nền kinh tế đã và đang được thế hệ lãnh đạo mới ở Cuba tiếp tục thực hiện nhằm thích nghi với nhu cầu phát triển của đất nước và tình hình thế giới.
Nền kinh tế Cuba gần như hoàn toàn khép kín và gần đây, khu vực kinh tế tư nhân mới được khuyến khích phát triển. Kinh tế Cuba tăng trưởng với tốc độ chậm được cho là do lệnh cấm vận dài hơn nửa thế kỷ của Mỹ và chương trình kế hoạch hóa tập trung. Năm 2010, Chủ tịch Cuba thời điểm đó là Raul Castro đã bắt đầu mở cửa nền kinh tế theo hướng tự do hóa thị trường hơn. Quốc hội Cuba đã thông qua dự thảo sửa đổi Hiến pháp với một số nội dung thay đổi. Hiến pháp mới đã "công nhận vai trò của thị trường và các hình thức sở hữu mới, trong đó có sở hữu tư nhân" với việc công nhận này sẽ cho phép hợp thức hóa các xí nghiệp vừa và nhỏ. Hiến pháp cũng nhìn nhận "tầm quan trọng của đầu tư ngoại quốc đối với sự phát triển của đất nước". Trên thực tế, hiện nay Cuba đã có cơ chế cho đầu tư nước ngoài nhưng là để bổ sung cho đầu tư của Nhà nước, thông qua các liên doanh.