Cơ điện tử
From Wikipedia, the free encyclopedia
Cơ điện tử hay Kỹ thuật cơ điện tử là một nhánh kỹ thuật liên ngành chú trọng vào các ngành kỹ thuật điện tử và kỹ thuật cơ khí, cũng như nghiên cứu các lĩnh vực robot học, điện tử học, kỹ thuật máy tính, viễn thông, kỹ thuật hệ thống, kỹ thuật điều khiển và Product engineering.[1][2] Với sự phát triển theo thời gian của công nghệ, nhiều phân ngành kỹ thuật đã thành công trong việc thích ứng và nhân rộng. Mục tiêu của ngành kỹ thuật cơ khí nhằm tạo ra giải pháp thiết kế (design solution) nhằm hợp nhất các phân ngành lại với nhau. Ban đầu, lĩnh vực nghiên cứu của cơ điện tử được dự định chỉ bao gồm sự kết hợp giữa cơ khí và điện tử, vì thế tên ngành là từ ghép giữa Cơ khí và Điện tử học (hay Mechatronics từ mechanics và electronics); tuy nhiên, với tính phức tạp của các hệ thống công nghệ phát triển không ngừng, định nghĩa của ngành được mở rộng sang nhiều lĩnh vực công nghệ khác.
Từ cơ điện tử (mechatronics) bắt nguồn từ Wasei-eigo là các từ vựng tiếng Nhật được xây dựng từ nguồn gốc là các từ vựng tiếng Anh và được tạo ra bởi Tetsuro Mori, một kỹ sư của Tập đoàn Điện tử Yaskawa. Từ mechatronics được đăng kí thương hiệu bởi một công ty ở Nhật Bản với mã số đăng kí "46-32714" vào năm 1971. Tuy nhiên, công ty sau đó đã công bố quyền sử dụng từ này cho công chúng, từ đó từ này bắt đầu được sử dụng trên toàn thế giới. Ngày nay, từ này được dịch sang nhiều ngôn ngữ và được coi là một thuật ngữ thiết yếu trong ngành công nghiệp.
Tiêu chuẩn NF E 01-010 của Pháp đưa ra định nghĩa: "phương pháp tiếp cận nhằm mục đích tích hợp cùng lúc cơ khí, điện tử, lý thuyết điều khiển tự động và khoa học máy tính trong việc thiết kế và sản xuất sản phẩm, để cải thiện và/hoặc tối ưu hóa chức năng của nó".
Nhiều người xem cơ điện tử là một từ thông dụng hiện đại đồng nghĩa với tự động hóa, robot học và kỹ thuật cơ điện (Electromechanical engineering).[3][4]
Kỹ thuật cơ điện tử là một khái niệm được dùng phổ biến để mô tả về một lĩnh vực khoa học kỹ thuật liên ngành. Dù ra đời từ những năm 60 nhưng cũng chưa có khái niệm nào được chấp nhận đầy đủ. Một số người cho rằng đấy là bản chất của ngành này, nó luôn luôn được mở rộng, bổ sung thêm rất nhiều các lĩnh vực khác nhau. Tùy từng trường hợp cụ thể mà sự tham gia, vai trò của các ngành khoa học kỹ thuật là khác nhau trong một tổng thể hệ thống cơ điện tử. Từ những năm 2000 thì cơ điện tử nhiều nơi nghiên cứu như một phương pháp thiết kế máy tối ưu nhằm tận dụng được lợi thế của các ngành khoa học kỹ thuật liên quan. Nhưng xét về tính chung, phổ biến thì kỹ thuật cơ điện tử vẫn được cấu thành từ những ngành kỹ thuật cơ khí, kỹ thuật điện và điện tử, kỹ thuật lập trình, cảm biến và truyền thông. Việc lựa chọn khối kiến thức của ngành nào làm nền tảng cũng ảnh hướng lớn đến ngành kỹ thuật cơ điện tử. Nguồn gốc năm 1969 thì cơ điện tử là những loại máy móc cơ khí được tích hợp thêm những bộ điều khiển điện điện tử. Ngày nay một số cơ sở giáo dục để ngành cơ điện tử thuộc và trên nền tảng của ngành kỹ thuật điện, thậm chí là công nghệ thông tin. Điều đó ảnh hưởng nhiều đến định hướng của ngành cơ điện tử. Nhưng mô hình chung của thế giới là cơ điển tử vẫn lấy khối kiến thức của kỹ thuật cơ khí (máy) để làm nền tảng.