Đái tháo đường
nhóm các rối loạn chuyển hoá / From Wikipedia, the free encyclopedia
Đái tháo đường hay tiểu đường là một nhóm các rối loạn chuyển hóa đặc trưng là tình trạng đường huyết cao kéo dài.[11] Các triệu chứng bao gồm tiểu tiện, khát nước và cảm thấy đói nhiều hơn bình thường.[2] Nếu không được điều trị, đái tháo đường có thể gây ra nhiều biến chứng,[2] bao gồm các biến chứng cấp tính như nhiễm toan ceton, tăng áp lực thẩm thấu và tử vong,[3] cũng như các biến chứng mạn tính như bệnh tim mạch, tai biến mạch máu não, bệnh thận, loét bàn chân, tổn thương thần kinh, tổn thương mắt và suy giảm nhận thức.[2][5]
Đái tháo đường | |
---|---|
Biểu tượng của bệnh đái tháo đường là một hình tròn viền xanh[1] | |
Khoa/Ngành | Nội tiết |
Triệu chứng | Tiểu tiện nhiều, khát nước quá mức, đói quá mức[2] |
Biến chứng | Nhiễm toan ceton, tăng áp lực thẩm thấu, bệnh tim mạch, tai biến mạch máu não, bệnh thần kinh ngoại biên, bệnh thận mạn tính, loét bàn chân, suy giảm nhận thức, liệt dạ dày[2][3][4][5] |
Yếu tố nguy cơ | Loại 1: Tiền sử gia đình[6] Loại 2: Béo phì, không tập thể dục, di truyền[2][7] |
Phương pháp chẩn đoán | Đường huyết cao[2] |
Điều trị | Chế độ ăn lành mạnh, tập thể dục[2] |
Thuốc | Insulin, Thuốc trị đái tháo đường như metformin[2][8][9] |
Dịch tễ | 463 triệu (8.8%)[10] |
Tử vong | 4,2 triệu (2019)[10] |
Đái tháo đường được gây ra bởi một trong hai nguyên nhân: do tuyến tụy không sản xuất đủ insulin hoặc do các thể bào của cơ thể không phản ứng một cách bình thường với insulin mà tuyến tụy sản xuất.[12] Có 3 loại đái tháo đường chính:[2]
- Đái tháo đường loại 1 là kết quả của việc tuyến tụy không sản xuất đủ insulin do mất tế bào beta.[2] Loại đái tháo đường này từng có tên là "đái tháo đường phụ thuộc insulin" hoặc "đái tháo đường trẻ em".[2] Tế bào beta mất đi do một phản ứng tự miễn dịch.[13] Nguyên nhân gây ra phản ứng này vẫn chưa được tìm ra.[2]
- Đái tháo đường loại 2 bắt đầu bằng tình trạng kháng insulin, nghĩa là các tế bào của cơ thể không phản ứng một cách bình thường với insulin.[2] Người bệnh cũng có thể trở nên thiếu insulin sau một thời gian.[14] Loại này từng có tên gọi là "đái tháo đường không phụ thuộc insulin" hoặc "đái tháo đường khởi phát ở tuổi trưởng thành".[2] Nguyên nhân phổ biến nhất là thừa cân và không tập thể dục.[2]
- Đái tháo đường thai kỳ, loại đái tháo đường chính thứ ba, xảy ra khi phụ nữ mang thai có đường huyết cao mặc dù không có tiền sử đái tháo đường.[2]
Đái tháo đường loại 1 cần phải được kiểm soát bằng cách tiêm insulin.[2] Đối với đái tháo đường loại 2, các biện pháp ngăn ngừa và điều trị bao gồm duy trì chế độ ăn lành mạnh, tập thể dục thường xuyên, giữ cân nặng ở mức bình thường và tránh hút thuốc lá.[2] Cũng có thể điều trị đái tháo đường loại 2 bằng các loại thuốc như thuốc làm nhạy cảm insulin có hoặc không kết hợp với insulin.[15] Việc kiểm soát huyết áp cũng như chăm sóc chân và mắt đúng cách là rất quan trọng với người bệnh.[2] Insulin và một số loại thuốc uống có thể gây hạ đường huyết.[16] Ở người bệnh béo phì, phẫu thuật giảm cân cũng có thể là một biện pháp điều trị hiệu quả.[17] Đái tháo đường thai kỳ thường tự chấm dứt sau khi thai nhi được sinh ra.[18]
Tính đến năm 2019[cập nhật], ước tính có 463 triệu bệnh nhân đái tháo đường trên toàn thế giới (8,8% tổng số người trưởng thành), trong đó đái tháo đường loại 2 chiếm khoảng 90%.[10] Tỷ lệ mắc bệnh giữa nam và nữ là tương đương nhau.[19] Các số liệu cho thấy tỉ lệ mắc bệnh sẽ tiếp tục gia tăng.[10] Đái tháo đường làm tắng nguy cơ tử vong sớm ít nhất là gấp hai lần.[2] Năm 2019, đái tháo đường gây khoảng 4,2 triệu ca tử vong.[10] Căn bệnh này là nguyên nhân tử vong lớn thứ 7 trên toàn thế giới.[20][21] Các chi phí y tế liên quan đến đái tháo đường trên toàn cầu vào năm 2017 được ước tính là đã gây ra tổn thất kinh tế lên đến 727 tỉ đô la Mỹ.[10] Ở Hoa Kỳ, đái tháo đường gây tổn thất gần 327 tỉ đô la Mỹ chỉ tính riêng trong năm 2017.[22] Trung bình, bệnh nhân đái tháo đường phải chịu phí tổn về y tế cao gấp 2,3 lần người bình thường.[23]