Chữ Kirin
hệ thống chữ viết sử dụng cho nhiều ngôn ngữ khác nhau ở lục địa Á-Âu / From Wikipedia, the free encyclopedia
Chữ Kirin, Kiril (Кири́л) hay Cyril (/sɪˈrɪlɪk/ sih-RIL-ik), hay còn gọi là chữ Slav (Slavonic hoặc Slavic) là một hệ thống chữ viết sử dụng cho nhiều ngôn ngữ khác nhau ở lục địa Á-Âu và được dùng như chữ quốc ngữ ở nhiều quốc gia sử dụng hệ ngôn ngữ Slav, Turk, Mông Cổ, Ural và Iran tại Đông Nam Âu, Đông Âu, Kavkaz, Trung Á, Bắc Á và Đông Á. Đây là một trong những hệ thống chữ viết cổ nhất và phổ biến nhất thế giới bên cạnh Chữ Latinh, Chữ Hán, Chữ Ả Rập và Chữ Devanagari.[3]
Kirin | |
---|---|
Văn bản tiếng Romania những năm 1780 (Lời cầu nguyện của Chúa), được viết bằng chữ Kirin | |
Thể loại | |
Thời kỳ | Các phiên bản sớm nhất tồn tại từ k. 893[1] – k. 940 |
Hướng viết | Trái sang phải |
Các ngôn ngữ | Chữ viết chính thức tại:
8 quốc gia có chủ quyền Chữ viết đồng chính thức tại: 6 quốc gia có chủ quyền và EU |
Hệ chữ viết liên quan | |
Nguồn gốc | |
Hậu duệ | Chữ Perm cổ |
Anh em | |
ISO 15924 | |
ISO 15924 | Cyrl, 220 Cyrs (Tiếng Slav Giáo hội cổ biến thể) |
Unicode | |
Dải Unicode |
|
Tên: tiếng Belarus: кірыліца, tiếng Bulgaria: кирилица [ˈkirilit͡sɐ], tiếng Macedonia: кирилица [kiˈrilit͡sa], tiếng Nga: кириллица [kʲɪˈrʲilʲɪtsə], tiếng Serbia: ћирилица, tiếng Ukraina: кирилиця | |
Bài viết này chứa các biểu tượng ngữ âm IPA trong Unicode. Nếu không thích hợp hỗ trợ dựng hình, bạn có thể sẽ nhìn thấy dấu chấm hỏi, hộp, hoặc ký hiệu khác thay vì kí tự Unicode. Để có hướng dẫn thêm về các ký hiệu IPA, hãy xem Trợ giúp:IPA. |
Vào thế kỷ 9, theo đường lối văn hóa và chính trị của cha mình là Bogoris, Sa hoàng Simeon I Đại đế của Bulgaria đã đưa vào vận hành một hệ thống chữ viết mới là Bảng chữ cái Kirin cổ. Bộ chữ viết này từng được phát triển tại Trường văn học Preslav ở Đế chế Bungari thứ nhất. Việc đưa vào sử dụng bảng chữ cái này sẽ thay thế hệ thống chữ viết Glagolit, được sáng tạo bởi Thánh Cyril và Methodius cùng các môn đồ đã tạo ra chữ viết Slav mới ở Bulgaria. Việc sử dụng hệ thống chữ Kirin ở Bulgaria được chính thức hóa vào năm 893.[4][5][6] Chữ viết mới đã trở thành nền tảng của các bảng chữ cái được sử dụng trong nhiều ngôn ngữ khác nhau, đặc biệt là các bảng chữ cái có nguồn gốc Slavic Chính thống, và các ngôn ngữ phi Slav bị ảnh hưởng bởi Tiếng Bungari. Trong nhiều thế kỷ, người Slav Công giáo và Hồi giáo cũng sử dụng chữ Kirin (xem Kirin của Bosnia). Tính đến năm 2019[cập nhật], khoảng 250 triệu người ở Âu-Á sử dụng chữ Kirin làm bảng chữ cái chính thức cho quốc ngữ của họ, và Nga chiếm khoảng một nửa trong số đó. Với việc Bulgaria gia nhập Liên minh Châu Âu vào ngày 1 tháng 1 năm 2007, Kirin trở thành chữ viết chính thức thứ ba của Liên minh Châu Âu, sau chữ Latinh và Hy Lạp.[3][7]
Kirin có nguồn gốc từ hệ thống chữ viết không có chữ số của Hy Lạp, được gia tố thêm các chữ cái trong bảng chữ cái cổ hơn là Glagolitic, bao gồm một số chữ ghép. Những chữ cái bổ sung này không xuất hiện trong tiếng Hy Lạp và được sử dụng cho tiếng Slav Giáo hội cổ. Chữ viết được đặt tên để vinh danh Thánh Kyrillô, một trong hai anh em Thánh Kyrillô và Mêthôđiô nhà Byzantine,[lower-alpha 1][8][9] người đã tạo ra bảng chữ cái Glagolit.[10] Đến nay, chưa có bằng chứng nào xác định được bảng chữ cái do ai tạo ra và được tạo ra khi nào. Tuy nhiên, nhiều học giả hiện đại tin rằng chữ Kirin được phát triển và chính thức hóa bởi các môn đệ đầu tiên của Kyrillô và Mêthôđiô trong Trường Văn học Preslav, trung tâm văn học và văn hóa sơ khai quan trọng nhất của Đế chế Bulgaria đầu tiên và của tất cả người Slav.[11] Không giống như những người thuộc Giáo hội ở Ohrid, các học giả Preslav phụ thuộc vào các mô hình Hy Lạp nhiều hơn và nhanh chóng từ bỏ các chữ viết Glagolitic để chuyển sang một chữ viết mới có tính thích nghi cao hơn với nhu cầu của tiếng Slav, ngày nay được gọi là bảng chữ cái Kirin.[4]
Nhiều bản khắc chữ Kirin được tìm thấy ở khu vực Preslav, trong chính thành phố thời trung cổ và tại Tu viện Patleina gần đó (bao gồm cả ở tỉnh Shumen ngày nay, trong Tu viện Ravna và Tu viện Varna). Những bản khắc sớm nhất có niên đại từ thế kỷ thứ 10, một trong số đó là bia mộ của cha mẹ Sa hoàng Samuel tại làng German thuộc Bắc Macedonia.[12] Ngoài ra, một trong những tài liệu sớm nhất về chữ Kirin là một dòng chữ song ngữ (Slav và Hy Lạp) trên một đồ gá bằng gốm có niên đại năm 931.[13]
Vào đầu thế kỷ 18, Peter Đại đế đã thực hiện cuộc cải cách mạnh mẽ đối với hệ thống chữ viết Kirin sử dụng ở Nga sau khi Đại Phái bộ Sứ thần của ông trở về từ Tây Âu. Các mẫu tự mới trở nên gần gũi hơn với các dạng chữ cái trong bảng chữ cái Latinh; một số chữ cái cổ đã bị bãi bỏ và một số chữ cái do chính Peter thiết kế. Các chữ cái bắt đầu có sự phân biệt giữa chữ hoa và chữ thường. Văn hóa kiểu chữ Tây Âu cũng được chấp nhận.[14] Các mẫu tự trước khi cải cách được gọi là 'Полуустав' đã được lưu giữ để sử dụng trong tiếng Slav Giáo hội và đôi khi được sử dụng để viết tiếng Nga ngay cả ngày nay, đặc biệt nếu người ta muốn tạo cho văn bản một cảm giác 'slavic' hoặc 'cổ xưa'.