Đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ
From Wikipedia, the free encyclopedia
Đội tuyển bóng đá quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Türkiye Millî Futbol Takımı) là đội tuyển cấp quốc gia của Thổ Nhĩ Kỳ do Liên đoàn bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ, được thành lập năm 1923 và là thành viên của FIFA từ năm 1923 và UEFA từ năm 1962, quản lý và điều hành.
Hiệp hội | Liên đoàn bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: Türkiye Futbol Federasyonu) | ||
---|---|---|---|
Liên đoàn châu lục | UEFA (châu Âu) | ||
Huấn luyện viên trưởng | Vincenzo Montella | ||
Đội trưởng | Hakan Çalhanoğlu | ||
Thi đấu nhiều nhất | Rüştü Reçber (120) | ||
Ghi bàn nhiều nhất | Hakan Şükür (51) | ||
Sân nhà | Khác nhau | ||
Mã FIFA | TUR | ||
| |||
Hạng FIFA | |||
Hiện tại | 40 5 (ngày 4 tháng 4 năm 2024)[1] | ||
Cao nhất | 5 (6.2004) | ||
Thấp nhất | 67 (10.1993) | ||
Hạng Elo | |||
Hiện tại | 41 3 (30 tháng 11 năm 2022)[2] | ||
Cao nhất | 10 (11.2002, 16.10.2020) | ||
Thấp nhất | 72 (13.11.1985, 29.10.1986) | ||
Trận quốc tế đầu tiên | |||
Thổ Nhĩ Kỳ 2–2 România (Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ; 26 tháng 10 năm 1923) | |||
Trận thắng đậm nhất | |||
Thổ Nhĩ Kỳ 7–0 Syria (Ankara, Thổ Nhĩ Kỳ; 20 tháng 11 năm 1949) Thổ Nhĩ Kỳ 7–0 Hàn Quốc (Genève, Thụy Sĩ; 20 tháng 6 năm 1954) Thổ Nhĩ Kỳ 7–0 San Marino (Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ; 10 tháng 11 năm 1996) | |||
Trận thua đậm nhất | |||
Ba Lan 8–0 Thổ Nhĩ Kỳ (Chorzow, Ba Lan; 24 tháng 4 năm 1968) Thổ Nhĩ Kỳ 0–8 Anh (Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ; 14 tháng 11 năm 1984) Anh 8–0 Thổ Nhĩ Kỳ (Luân Đôn, Anh; 14 tháng 10 năm 1987) | |||
Giải thế giới | |||
Sồ lần tham dự | 2 (Lần đầu vào năm 1954) | ||
Kết quả tốt nhất | Hạng ba (2002) | ||
Giải vô địch bóng đá châu Âu | |||
Sồ lần tham dự | 6 (Lần đầu vào năm 1996) | ||
Kết quả tốt nhất | Bán kết (2008) | ||
Thế vận hội Mùa hè | |||
Sồ lần tham dự | 6 (Lần đầu vào năm 1924) | ||
Kết quả tốt nhất | Tứ kết (1948, 1952) | ||
Cúp Liên đoàn các châu lục | |||
Sồ lần tham dự | 1 (Lần đầu vào năm 2003) | ||
Kết quả tốt nhất | Hạng ba (2003) | ||
Đội đã chơi trận đấu quốc tế chính thức đầu tiên vào năm 1923 và đã đại diện cho quốc gia trong các giải đấu quốc tế lớn kể từ lần đầu xuất hiện tại Thế vận hội mùa hè 1924. Họ đã tham gia Thế vận hội Mùa hè tổng cộng sáu lần (1924, 1928, 1936, 1948, 1952 và 1960), và lọt vào tứ kết hai lần, vào năm 1948 và 1952.
Đội đã đạt được thành tích cao nhất trong những năm 2000, đáng chú ý nhất là kết thúc ở vị trí thứ ba tại FIFA World Cup 2002 và FIFA Confederations Cup 2003, đồng thời lọt vào bán kết tại UEFA Euro 2008. Họ đã vượt qua vòng loại FIFA World Cup ba lần (1950, 1954 và 2002) và lọt vào bán kết năm 2002, giành huy chương đồng. Đội đã đủ điều kiện tham dự Giải bóng đá vô địch châu Âu năm lần. Ra mắt tại Euro 96, họ lọt vào tứ kết Euro 2000 và bán kết Euro 2008. Trong những năm gần đây, Thổ Nhĩ Kỳ đã vượt qua vòng loại Euro 2016 và Euro 2020.
Kể từ khi được giới thiệu vào năm 1992, Bảng xếp hạng FIFA đã xếp Thổ Nhĩ Kỳ từ vị trí thứ 5 đến 57. Sau thành công của họ tại World Cup 2002, Thổ Nhĩ Kỳ đã giành được vị trí trong top 10 của bảng xếp hạng từ năm 2002 đến năm 2004, xếp ở vị trí thứ 5 vào tháng 6 năm 2004. Đội tuyển một lần nữa leo lên vị trí thứ 10 vào tháng 12 năm 2008, sau thành công của họ tại Euro 2008. Thổ Nhĩ Kỳ đạt tỷ số chiến thắng cao nhất với 7–0 trận thắng trước Syria năm 1949, Hàn Quốc năm 1954 và San Marino năm 1996, trong khi trận thua đậm nhất của họ là 8–0 trận thua Ba Lan năm 1968 và Anh năm 1984 và 1987.
Tính đến năm 2020, cầu thủ khoác áo đội tuyển quốc gia nhiều nhất là Rüştü Reçber với 120 lần khoác áo quốc tế lâu năm từ năm 1994 đến năm 2012, và cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất là Hakan Şükür với 51 bàn thắng ghi được từ năm 1992 đến năm 2007. Đội trưởng phục vụ đội tuyển lâu nhất là Turgay Şeren từ năm 1950 đến năm 1966.