Đặng Tiểu Bình
chính trị gia người Trung Quốc / From Wikipedia, the free encyclopedia
Đặng Tiểu Bình (ngheⓘ giản thể: 邓小平; phồn thể: 鄧小平; bính âm: Dèng Xiǎopíng; 22 tháng 8 năm 1904 - 19 tháng 2 năm 1997), tên khai sinh là Đặng Tiên Thánh (邓先聖) là một nhà chính trị người Trung Quốc, ông là Lãnh đạo tối cao của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa từ năm 1978 đến năm 1997 (khi ông qua đời). Sau khi Mao Trạch Đông qua đời năm 1976, Đặng lên nắm quyền và lãnh đạo Trung Quốc qua một loạt những cải cách kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa có ảnh hưởng sâu rộng, người Trung Quốc thường gọi ông với danh xưng "kiến trúc sư của Trung Quốc hiện đại".
Bài viết này có nhiều vấn đề. Xin vui lòng giúp đỡ cải thiện nó hoặc thảo luận về những vấn đề này trên trang thảo luận.
|
Đặng Tiểu Bình 邓小平 | |
---|---|
Đặng Tiểu Bình năm 1979 với Jimmy Carter ở phía sau | |
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 13 tháng 9 năm 1982 – 2 tháng 11 năm 1987 5 năm, 50 ngày |
Tiền nhiệm | Chức vụ được thành lập |
Kế nhiệm | Trần Vân |
Phó Chủ nhiệm | Bạc Nhất Ba Hứa Thế Hữu Đàm Chấn Lâm Lý Duy Hán |
Nhiệm kỳ | 28 tháng 6 năm 1981 – 9 tháng 11 năm 1989 8 năm, 134 ngày |
Tiền nhiệm | Hoa Quốc Phong |
Kế nhiệm | Giang Trạch Dân |
Phó Chủ tịch | Diệp Kiếm Anh Triệu Tử Dương Dương Thượng Côn |
Nhiệm kỳ | 6 tháng 6 năm 1983 – 19 tháng 3 năm 1990 6 năm, 286 ngày |
Tiền nhiệm | Lưu Thiếu Kỳ (Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng,năm 1968) |
Kế nhiệm | Giang Trạch Dân |
Phó Chủ tịch | Diệp Kiếm Anh Triệu Tử Dương Dương Thượng Côn |
Nhiệm kỳ | 3 tháng 8 năm 1978 – 17 tháng 6 năm 1983 4 năm, 318 ngày |
Tiền nhiệm | Chu Ân Lai |
Kế nhiệm | Đặng Dĩnh Siêu |
Phó Chủ tịch | Ô Lan Phu Vi Quốc Thanh Bành Trùng Triệu Tử Dương |
Tổng Tham mưu trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc | |
Nhiệm kỳ | 5 tháng 1 năm 1975 – 7 tháng 4 năm 1976 1 năm, 93 ngày 17 tháng 7 năm 1977-2 tháng 3 năm 1980 2 năm, 229 ngày |
Tiền nhiệm | Hoàng Vĩnh Thắng |
Kế nhiệm | Dương Đắc Chí |
Phó Tổng Tham mưu trưởng | Ngũ Tu Quyền Vương Tranh Trì Hạo Điền |
Nhiệm kỳ | 7 tháng 8 năm 1952 – 31 tháng 10 năm 1968 16 năm, 85 ngày 10 tháng 3 năm 1973-7 tháng 4 năm 1976 3 năm, 28 ngày 21 tháng 7 năm 1977-10 tháng 9 năm 1980 3 năm, 51 ngày |
Tổng lý | Chu Ân Lai → Hoa Quốc Phong |
Nhiệm kỳ | 10 tháng 1 năm 1975 – 7 tháng 4 năm 1976 1 năm, 88 ngày 19 tháng 8 năm 1977-12 tháng 9 năm 1982 5 năm, 24 ngày |
Chủ tịch | Mao Trạch Đông → Hoa Quốc Phong → Hồ Diệu Bang |
Thông tin chung | |
Sinh | (1904-08-22)22 tháng 8, 1904 Quảng An, Tứ Xuyên, Đại Thanh |
Mất | 19 tháng 2, 1997(1997-02-19) (92 tuổi) Bắc Kinh, Trung Quốc |
Dân tộc | Khách Gia |
Tôn giáo | Không |
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Trung Quốc |
Vợ | Trương Tích Viên (cưới 1928–1929) Kim Duy Ánh (cưới 1931–1933) Trác Lâm (cưới 1939–1997) |
Con cái | Đặng Lâm (1941-) Đặng Phác Phương (1944-) Đặng Nam (1945-) Đặng Dung (1950-) Đặng Chất Phương (1952-) |
Trường lớp | Đại học Tôn Trung Sơn Moskva |
Sinh ra trong một gia đình địa chủ có học thức ở tỉnh Tứ Xuyên, Đặng học tập và làm việc tại Pháp trong những năm 1920, nơi ông đã trở thành một người đi theo chủ nghĩa Mác Lênin. Ông gia nhập Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1923. Trong thời gian trở lại Trung Quốc, Đặng gia nhập tổ chức đảng ở Thượng Hải, trở thành một chính ủy của Hồng quân Trung Quốc ở những khu vực nông thôn. Năm 1931, ông bị giáng cấp do việc ủng hộ Mao Trạch Đông, nhưng được thăng cấp trở lại trong Hội nghị Tuân Nghĩa 1935. Khoảng cuối những năm thập niên 30, Đặng được xem là một "nhà cách mạng kì cựu" bởi vì ông đã từng tham gia cuộc Vạn lý trường chinh. Sau khi nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được thành lập năm 1949, Đặng làm việc ở Tây Tạng cũng như vùng Tây Nam Trung Quốc nhằm củng cố sự quản lý của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Với vai trò là Tổng thư ký trong những năm thập niên 1950, Đặng đứng đầu Chiến dịch chống cánh hữu được phát động bởi Mao và có công lớn trong việc cải cách nền kinh tế Trung Quốc sau chiến dịch Đại nhảy vọt (1958-1960). Tuy nhiên, những chính sách kinh tế của Đặng đã khiến ông mất đi sự ủng hộ của Mao Trạch Đông và bị thanh trừng hai lần trong Cách mạng văn hóa.
Sau khi Mao Trạch Đông qua đời năm 1976, Đặng trở thành lãnh tụ tối cao Trung Quốc trong tháng 12 năm 1978. Lên lãnh đạo một đất nước bao phủ bởi xung đột xã hội, vỡ mộng với ý thức hệ và rối loạn do những nguyên nhân từ các chính sách của thời kỳ Mao Trạch Đông nắm quyền, Đặng đã bắt đầu mang đất nước vào khuôn khổ. Từ năm 1977 tới đầu năm 1979, ông đã tổ chức kì thi đại học cao đẳng trong Trung Quốc sau khi bị gián đoạn bởi Cách mạng văn hóa trong 10 năm, khởi xưởng chính sách lịch sử Cải cách mở cửa Trung Quốc, phát động Chiến tranh biên giới Việt - Trung. Trong tháng 8 năm 1980, ông bắt đầu cải tổ lại nền chính trị Trung Quốc bằng cách đặt ra giới hạn nhiệm kỳ cho các quan chức và đề xuất một sửa đổi mang tính hệ thống đối với Hiến pháp lần thứ ba của Trung Quốc. Trong những năm thập niên 80, Đặng ủng hộ chính sách kế hoạch hóa gia đình nhằm đối phó với khủng hoảng gia tăng dân số Trung Quốc, thực hiện chính sách Giáo dục bắt buộc và đưa ra Chương trình 863 cho khoa học và kĩ thuật.
Mặc dù Đặng Tiểu Bình chưa bao giờ có chức vụ nguyên thủ quốc gia hay đứng đầu chính phủ hoặc Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc nhưng nhiều người gọi ông là "kiến trúc sư" của một kiểu tư tưởng mới mà kết hợp tư tưởng chủ nghĩa xã hội với thị trường tự do, được gọi là "chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc". Ông mở cửa Trung Quốc giao lưu với thị trường thế giới, những chính sách phát triển Trung Quốc thành một trong những nền kinh tế phát triển nhất thế giới và tăng chất lượng cuộc sống của hàng trăm triệu người. Đặng được bình chọn là Nhân vật của năm của tạp chí Time năm 1978 và 1985. Ông bị chỉ trích vì ra lệnh trấn áp những người biểu tình trong sự kiện Thiên An Môn, nhưng được khen ngợi cho sự tái khẳng định của ông về chương trình cải cách trong chuyến đi xuống phía Nam năm 1992 cũng như sự kiện bàn giao Hồng Kông cho Trung Quốc năm 1997.