Mùa bão Đại Tây Dương 2005
Có nhiều siêu bão hình thành trong mùa này / From Wikipedia, the free encyclopedia
Mùa bão Đại Tây Dương 2005 là mùa bão Đại Tây Dương hoạt động mạnh nhất trong lịch sử, cho đến khi kỷ lục này bị phá vỡ 15 năm sau vào năm 2020. Mùa bão này đã phá vỡ nhiều kỷ lục vào thời điểm đó, với 28 cơn bão nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới được ghi nhận. Trung tâm Bão Quốc gia Hoa Kỳ đã đặt tên cho 27 cơn bão, làm cạn kiệt danh sách được chỉ định trước hàng năm và dẫn đến việc sử dụng sáu tên chữ cái Hy Lạp , đồng thời xác định thêm một cơn bão không tên trong quá trình phân tích lại sau mùa. 15 cơn bão kỷ lục đạt được trạng thái bão, với sức gió duy trì tối đa ít nhất 64 kt (119 km/h); trong số đó, đạt kỷ lục với bảy cơn bão trở thành bão lớn, là cấp 3 hoặc cao hơn trên thang Saffir – Simpson. Bốn cơn bão của mùa này trở thành bão cấp 5, cấp cao nhất trong thang đo.
Bản đồ tóm lược mùa bão | |
Lần đầu hình thành | Ngày 8 tháng 6, 2005 |
---|---|
Lần cuối cùng tan | Ngày 6 tháng 1, 2006 (muộn nhất, bằng với năm 1954) |
Bão mạnh nhất | Wilma (Bão mạnh nhất ở lưu vực Đại Tây Dương) – 882 mbar (hPa) (26.06 inHg), 185 mph (295 km/h) (duy trì liên tục trong 1 phút) |
Số áp thấp | 31 (cao kỷ lục, bằng với năm 2020) |
Tổng số bão | 28 |
Bão cuồng phong | 15 (cao kỷ lục) |
Bão cuồng phong rất mạnh (Cấp 3+) | 7 (cao kỷ lục, bằng với năm 2020) |
Số người chết | 3.472 tất cả |
Thiệt hại | $172 tỉ (USD 2005) (Kỷ lục về mùa xoáy thuận nhiệt đới tốn kém thứ hai) |
Mùa bão Đại Tây Dương 2003, 2004, 2005, 2006, 2007 | |
Bài liên quan | |
|
Bốn cơn bão cấp 5 đã phát triển trong mùa là: Emily, Katrina, Rita và Wilma. Vào tháng 7, cơn bão Emily đạt cường độ cao nhất ở vùng biển Caribe, trở thành cơn bão cấp 5 đầu tiên trong mùa, sau đó suy yếu và tấn công Mexico hai lần. Vào tháng 8, Katrina đạt cực đại ở vịnh Mexico sau đó suy yếu và nó tấn công các bang Louisiana và Mississippi của Hoa Kỳ. Những tác động tàn khốc nhất trong mùa đã được ghi nhận ở Bờ Vịnh của Hoa Kỳ, nơi triều cường của bão Katrina làm tê liệt New Orleans, Louisiana trong nhiều tuần và tàn phá đường bờ biển Mississippi. Katrina trở thành cơn bão lớn nhất của Hoa Kỳ, gây thiệt hại 125 tỷ đô la và khiến ít nhất 1392 người chết. Rita theo sau vào tháng 9, đạt cường độ cao nhất ở vịnh Mexico trước khi suy yếu và tấn công gần biên giới Texas và Louisiana. Cơn bão mạnh nhất trong mùa là Wilma, đã trở thành cơn bão Đại Tây Dương có áp suất trung tâm tối thiểu thấp nhất. Wilma kéo dài 10 ngày trong tháng 10, di chuyển qua Cozumel, bán đảo Yucatán và Florida, gây thiệt hại 19 tỷ USD và 48 người chết.
Tác động của mùa bão là rất rộng và thảm khốc. Các cơn bão của nó đã gây ra ước tính 3.468 người chết và thiệt hại khoảng 171,7 tỷ USD. Đó là mùa gây ra thiệt hại cao nhất được ghi nhận vào thời điểm đó, cho đến khi kỷ lục của nó bị vượt qua 12 năm sau đó . Nó cũng tạo ra chỉ số năng lượng xoáy thuận tích lũy (ACE) cao thứ hai trong lưu vực Đại Tây Dương, chỉ thấp hơn mùa bão 1933. Mùa bão chính thức bắt đầu vào ngày 1 tháng 6 năm 2005, và cơn bão đầu tiên - Arlene - phát triển vào ngày 8 tháng 6. Bão Dennis vào tháng 7 đã gây thiệt hại nặng nề cho Cuba. Bão Stan vào tháng 10 là một phần của hình thế thời tiết rộng lớn hơn đã giết chết 1.668 người và gây thiệt hại 3,96 tỷ đô la cho miền Đông Mexico và Trung Mỹ, với Guatemala bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Cơn bão cuối cùng - Zeta - hình thành vào cuối tháng 12 và kéo dài đến ngày 6 tháng 1 năm 2006.
Lưu ý là do Nam Đại Tây Dương (vùng phía Nam xích đạo của Đại Tây Dương) có rất ít xoáy thuận nhiệt đới, phạm vi của bài này là khu vực Bắc Đại Tây Dương (khu vực Đại Tây Dương, phía Bắc xích đạo). Trong bài viết này, thang bão được sử dụng là thang bão Saffir–Simpson, ngoài ra đối với số liệu gió quan trắc, gió mạnh trung bình đo từ 2 phút trở lên và gió giật sẽ được đối chiếu với thang sức gió Beaufort.[nb 1]