Chiến dịch Huế – Đà Nẵng
From Wikipedia, the free encyclopedia
Chiến dịch Huế - Đà Nẵng là một chiến dịch trong các chiến dịch lớn của cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Mùa xuân năm 1975 do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát động, dẫn đến kết thúc thành công cuộc Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch này bắt đầu từ ngày 5 tháng 3 đến ngày 29 tháng 3 năm 1975 sau khi chiến dịch Tây Nguyên bắt đầu được một ngày. Diễn biến các hoạt động quân sự của chiến dịch bao gồm ba chiến dịch nhỏ hơn được tiến hành gối nhau về thời gian: Chiến dịch Trị Thiên 1975, Chiến dịch Nam-Ngãi và Chiến dịch Đà Nẵng.
Chiến dịch Huế-Đà Nẵng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Một phần của Chiến dịch Mùa Xuân 1975 | |||||||
Quân Giải phóng miền Nam thắng lợi và tiếp quản Thừa Thiên Huế trong ngày 26 tháng 3 năm 1975 | |||||||
| |||||||
Tham chiến | |||||||
![]() |
![]() ![]() | ||||||
Chỉ huy và lãnh đạo | |||||||
![]() ![]() ![]() ![]() ![]() |
![]() ![]() | ||||||
Lực lượng | |||||||
4 sư đoàn bộ binh, 5 trung đoàn, 4 tiểu đoàn, 1 lữ đoàn độc lập, tổng cộng khoảng 60.000 quân 168 xe tăng và xe thiết giáp[4] 3 trung đoàn pháo binh với 103 pháo xe kéo, 281 pháo cỡ nhỏ và súng cối 1 sư đoàn phòng không 1 lữ đoàn công binh 1 lữ đoàn thông tin - liên lạc |
134.000 quân chủ lực và quân địa phương Hàng vạn lính phòng vệ dân sự có vũ trang 449 xe tăng và xe bọc thép, 64 xe bọc thép M-42 gắn pháo phòng không 40mm, 418 pháo cỡ lớn 105 ly tới 175 ly (chưa kể pháo cỡ nhỏ và súng cối) 373 máy bay, 165 tàu xuồng các loại. [5] | ||||||
Thương vong và tổn thất | |||||||
9.000 chết hoặc bị thương |
Ngoài 8.000 quân xuống tàu chạy ra biển, còn lại trên 140.000 quân bị tiêu diệt, bắt sống, đầu hàng hoặc tan rã. Hầu hết vũ khí bị phá hủy hoặc thu giữ (129 máy bay các loại, 327 khẩu pháo, 179 xe tăng và xe thiết giáp, 1.100 xe quân sự, 47 tàu xuồng chiến đấu, 10 vạn tấn vũ khí các loại bị thu giữ[6]) |
Giống như ở Tây Nguyên, sự can thiệp của tổng thống Việt Nam Cộng hoà là Nguyễn Văn Thiệu với chiến lược "cố thủ" mới của ông cũng là một trong những nguyên nhân đưa đến việc Quân khu I thất thủ. Kết quả của chiến dịch này là Quân đoàn I Quân lực Việt Nam Cộng hòa phải rút bỏ Quân khu I. Để tránh nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn, Quân đoàn II phải bỏ lại toàn bộ địa bàn ven biển miền Trung Trung bộ. Hai quân đoàn này sau đó đã phải giải thể. Những đơn vị còn lại được sáp nhập vào Quân đoàn III. Tuyến phòng thủ của quân đội Việt Nam Cộng hòa đã lùi từ mức 1 (giữ Huế - Đà Nẵng trở vào) xuống dưới mức 5 (giữ Ninh Thuận trở vào), làm phá sản những dự kiến hồi tháng 8 năm 1974 trong bản Kế hoạch quân sự Lý Thường Kiệt 1975 cũng như kế hoạch phòng thủ 5 mức đã được tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vạch ra ngày 11 tháng 3 năm 1975. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có thời cơ để đẩy nhanh sự tan rã của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hoà.